Player FM - Internet Radio Done Right
13,885 subscribers
Checked 3d ago
Ditambah nine tahun yang lalu
Kandungan disediakan oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Semua kandungan podcast termasuk episod, grafik dan perihalan podcast dimuat naik dan disediakan terus oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt atau rakan kongsi platform podcast mereka. Jika anda percaya seseorang menggunakan karya berhak cipta anda tanpa kebenaran anda, anda boleh mengikuti proses yang digariskan di sini https://ms.player.fm/legal.
Player FM - Aplikasi Podcast
Pergi ke luar talian dengan aplikasi Player FM !
Pergi ke luar talian dengan aplikasi Player FM !
Podcast Berbaloi untuk Didengar
DITAJA
T
Threshold
![Threshold podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/11090196/series/9ly17xvTeyBgh2mO/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/11090196/series/9ly17xvTeyBgh2mO/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/11090196/series/9ly17xvTeyBgh2mO/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/11090196/series/9ly17xvTeyBgh2mO/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/11090196/series/9ly17xvTeyBgh2mO/512.jpg 512w)
![Threshold podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
We answer listener questions about the making of Season 5: Hark and of Threshold more broadly in this special AMA episode with host Amy Martin, managing editor Erika Janik, and producer Sam Moore. Thanks to Kraftkabel for the use of his music. You can find the whole track here . Threshold is nonprofit, listener-supported, and independently produced. You can support Threshold by donating today . To stay connected, sign up for our newsletter .…
Tạp chí xã hội
Tandakan semua sebagai (belum) dimainkan
Manage series 130291
Kandungan disediakan oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Semua kandungan podcast termasuk episod, grafik dan perihalan podcast dimuat naik dan disediakan terus oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt atau rakan kongsi platform podcast mereka. Jika anda percaya seseorang menggunakan karya berhak cipta anda tanpa kebenaran anda, anda boleh mengikuti proses yang digariskan di sini https://ms.player.fm/legal.
Những vấn đề xã hội Việt Nam và trên thế giới qua lăng kính RFI
67 episod
Tandakan semua sebagai (belum) dimainkan
Manage series 130291
Kandungan disediakan oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt. Semua kandungan podcast termasuk episod, grafik dan perihalan podcast dimuat naik dan disediakan terus oleh France Médias Monde and RFI Tiếng Việt atau rakan kongsi platform podcast mereka. Jika anda percaya seseorang menggunakan karya berhak cipta anda tanpa kebenaran anda, anda boleh mengikuti proses yang digariskan di sini https://ms.player.fm/legal.
Những vấn đề xã hội Việt Nam và trên thế giới qua lăng kính RFI
67 episod
모든 에피소드
×Pháp không muốn bị thụt lùi so với Mỹ và Trung Quốc trong cuộc đua Trí tuệ Nhân tạo - AI. Tuần lễ và Thượng đỉnh Hành động về AI - đồng tổ chức với Ấn Độ - ở Paris là cơ hội để Pháp bảo vệ chủ quyền kỹ thuật số, đặc biệt với những thông báo quan trọng của tổng thống Emmanuel Macron : 109 tỉ euro đầu tư vào AI tại Pháp, quảng bá "sản phẩm Pháp" - chatbot Le Chat của Mistral AI, hiện trở thành đối tác của nhiều tập đoàn lớn. Trong ba ngày sau khi được tổng thống Pháp quảng bá trong buổi trả lời phỏng vấn với đài France 2 (ngày 09/02), Le Chat trở thành ứng dụng được tải nhiều nhất trên Apple Store. Ứng dụng Pháp, cạnh tranh với ChatGPT của Mỹ và DeepSeek của Trung Quốc, đã tóm tắt buổi phỏng vấn của tổng thống Macron theo yêu cầu của RFI Tiếng Việt : « Trả lời phỏng vấn đài France 2, tổng thống Emmanuel Macron thông báo khoản đầu tư lớn 109 tỉ euro trong lĩnh vực AI tại Pháp. Quỹ này được hình thành từ nhiều nguồn đóng góp khác nhau, trong đó có Ả Rập Xê Út, Canada, nhiều doanh nghiệp Pháp và nước ngoài. Tổng thống Macron cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý AI toàn cầu, nói rằng mọi nội dung do phần mềm AI tạo ra phải được xác định rõ ràng. Ông kêu gọi một chiến lược AI đầy tham vọng, ở cả cấp độ Pháp và châu Âu, với các mục tiêu xã hội, kinh tế và ngoại giao. Tổng thống cũng nhấn mạnh đến chatbot “Le Chat”, do công ty khởi nghiệp Mistral AI của Pháp phát triển, đồng thời kêu gọi người dân Pháp tải xuống. Ứng dụng này được giới thiệu là đối thủ cạnh tranh của ChatGPT. Cuối cùng, ông Macron bày tỏ sự lạc quan về tác động của AI đối với việc làm, tin rằng sự phát triển của công nghệ sẽ giải phóng thời gian bằng cách phân công các nhiệm vụ lặp đi lặp lại, giúp "đưa yếu tố con người trở lại" trong các mối quan hệ » . Điểm đặc biệt là Le Chat dẫn ngay các nguồn được sử dụng ngay dưới câu trả lời để người sử dụng dễ kiểm chứng. Và ứng dụng Le Chat khẳng định trả lời được bằng tiếng Việt và sử dụng các nguồn tiếng Việt. Pháp “chán” phải chạy theo Mỹ và Trung Quốc Khoản đầu tư 109 tỉ euro trong vòng 5 năm tới được tổng thống Macron thông báo nhằm mục đích giúp Pháp duy trì « cuộc đua về Trí tuệ Nhân tạo » , « sáng tạo những giải pháp, những công nghệ riêng, nếu không, sẽ bị phụ thuộc vào những nước khác » : « Chúng ta (Pháp và châu Âu) có những lợi thế tuyệt vời. Phải nói là tất cả các nước đều bị trễ so với Hoa Kỳ và Trung Quốc. Do đó, về đào tạo, chúng ta có những quan hệ đối tác, như với Ấn Độ, một cường quốc về đào tạo Trí tuệ Nhân tạo. Chúng ta đã đào tạo 40.000 thanh niên trong lĩnh vực Trí tuệ Nhân tạo nhưng con số này sẽ tăng lên thành 100.000 người. Chúng ta cũng có những nhà khoa học về dữ liệu, những nhà toán học. Pháp có rất nhiều tài năng. Và đó là một sức mạnh to lớn. Nhưng Pháp cũng bị thụt lùi về các trung tâm dữ liệu, có nghĩa là khả năng tính toán. Để làm được việc này, cần phải có những siêu máy tính, thu thập khối lượng dữ liệu lớn. Và cần khẩn trương thực hiện. Do đó, tôi muốn thông báo tối nay rằng châu Âu và Pháp sẽ thúc đẩy tiến trình này. Pháp thông báo tại Thượng đỉnh Hành động về Trí tuệ Nhân tạo 109 tỉ euro đầu tư vào lĩnh vực AI trong những năm tới. Đây là chuyện chưa từng có. Khoản đầu tư này tương xứng với những thông báo của Mỹ về quỹ Stargate với 500 tỉ đô la đầu tư. Trong số các nhà đầu tư, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất đầu tư vào một trung tâm dữ liệu lớn ở Pháp. Ngoài ra còn có những quỹ đầu tư lớn của Mỹ, Canada cùng với rất nhiều doanh nghiệp Pháp » . Đọc thêm : AI : Bài toán khó để Pháp và Liên Âu không bị loại khỏi bàn cờ quốc tế về Trí tuệ Nhân tạo Cụ thể, theo trang Les Echos, Quỹ MGX của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất đầu tư 50 tỉ euro xây dựng một trung dữ liệu lớn có công suất 1 GW. Trên tổng số 20 tỉ euro đầu tư vào AI tại Pháp, quỹ đầu tư Canada Brookfieal dành 15 tỉ euro để xây dựng nhiều trung tâm dữ liệu, trong đó có một trung tâm có công suất 1 GW ở Cambrai, nơi trở thành phòng thí nghiệm ở miền bắc Pháp. Theo điện Elysée, « những dự án này cho thấy lực hấp dẫn của Pháp, cũng như chất lượng mạng lưới điện và đường truyền internet, đủ lớn và vững chắc để tiếp nhận tất cả những nhà máy về AI trong tương lai » . Ngoài ra, rất nhiều dự án xây dựng mới liên quan đến AI cũng được các quỹ đầu tư Fluidstack của Anh, Equinix, Digital Realty và Prologis của Mỹ, Evroc của Thụy Điển, Sesterce của Pháp lần lượt thông báo tại Thượng đỉnh Hành động về AI. Công ty khởi nghiệp Mistral AI, chủ sở hữu Le Chat, cũng thông báo « đầu tư vài tỉ euro » vào một trung tâm dữ liệu lớn, được đặt tại Saclay, khu đại học nổi tiếng ở tỉnh Essonne, ngoại ô Paris. Le Chat - cạnh tranh với Deep S eek và ChatGPT Phần mềm Le Chat là sản phẩm của Mistral AI, start-up được cho là còn non trẻ so với những đối thủ. Arthur Mensch, từng làm việc cho Google và DeepMind và hai cộng sự Guillaume Lample và Timothée Lacroix, từng làm việc cho Meta, thành lập Mistral AI tháng 04/2023 và đã kêu gọi được đầu tư hơn 6 tỉ euro. Bộ trưởng Kinh Tế Éric Lombard không ngần ngại quảng bá cho « sản phẩm Pháp » là đã chuẩn bị một buổi phỏng vấn nhờ ứng dụng Le Chat. Cách thực hiện giống như « kiểu đóng vai » , theo giải thích của nhà sáng lập Arthur Mensch khi trả lời phỏng vấn đài France 2 ngày 10/02 : « Le Chat có thể tìm những câu hỏi ở đâu ư ? Phần mềm Le Chat thông minh, nên cô đọng được kiến thức nhân loại. Le Chat biết y học là gì, lịch sử là gì và truyền thông là gì. Le Chat cũng biết tất cả các ngôn ngữ nên có thể dùng ứng dụng này để dịch mọi thứ. Và khi bạn đưa ra chỉ dẫn, chẳng hạn như tôi phải chuẩn bị cho một cuộc phỏng vấn, Le Chat có thể giải thích chuẩn bị một cuộc phỏng vấn như thế nào, hình dung ra những câu hỏi và giúp chuẩn bị. Đó là một ví dụ có có thể truyền tải nhanh trong giáo dục. Ví dụ một sinh viên ngành toán hay triết học có thể nhờ Le Chat đặt câu hỏi ôn tập và về lâu dài là để củng cố kiến thức của mình. Đúng là có trường hợp gian lận, nhờ Le Chat làm hộ bài tập. Nhưng cần phải đặt câu hỏi là tại sao phải làm bài tập ? Đó là để học hỏi điều gì đó. Cho nên cần phải coi trí tuệ nhân tạo mà Le Chat cung cấp là một cách học nhanh hơn, không phải để gian lận. Cần phải giữ đúng mục đích chính của việc làm bài tập, chứ không đề cao vào thành phẩm cuối cùng ». Đọc thêm : Trí tuệ Nhân tạo và những rủi ro khó có thể kiểm soát Pháp cần tập thể để cạnh tranh Trước khi diễn ra Thượng đỉnh Hành động về Trí tuệ Nhân tạo, Pháp cũng như Liên Hiệp Châu Âu hứng cú sốc DeepSeek. Ông Bruno Bonnell, tổng thư ký France 2030 - kế hoạch tài chính của Pháp về khả năng cạnh tranh - thừa nhận : « DeepSeek giống như lời cảnh tỉnh mà chúng ta cần » . Mô hình AI tạo sinh từ Trung Quốc được quảng bá ít tốn kém hơn rất nhiều nhưng hiệu quả hoàn toàn không kém nếu so sánh với những khoản tiền khổng lồ được đổ vào các tập đoàn AI của Mỹ. Arthur Mensch, nhà đồng sáng lập công ty Mistral AI, giải thích Le Chat, được khởi động cùng lúc với DeepSeek của Trung Quốc, có lợi thế về chi phí thấp hơn so với những ứng dụng của Mỹ. Điều này cho thấy Pháp cũng như châu Âu có điều kiện tham gia cuộc đua AI : « Tôi nghĩ châu Âu có vai trò thực sự, đặc biệt là vì có nguồn nhân tài đặc biệt đáng chú ý, điều này cho phép chúng ta hiệu quả hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh ở Mỹ trong việc xây dựng công nghệ, với chi phí ít hơn. Vì thế phải vun đắp lợi thế này và cũng tương tự như vậy trong môi trường AI. Quá trình này sẽ được xây dựng nhanh hơn nếu các công ty châu Âu nhận ra rằng họ có lợi khi hợp tác với các doanh nghiệp châu Âu khác để đẩy nhanh lộ trình Trí tuệ Nhân tạo của mình. Và vì thế châu Âu thực sự có vai trò quan trọng với phần còn lại của thế giới. Ví dụ, chúng tôi đã mở chi nhánh tại Singapore và có những khách hàng đầu tiên ở đó. Có thể thấy là có một cơ hội thực sự, không phải của Mỹ và không phải của Trung Quốc » . Đọc thêm : Trí tuệ Nhân tạo : Hủy hoại hay thân thiện với môi trường ? Dù được cho là phong phú nhưng hệ sinh thái công nghệ châu Âu vẫn còn khiêm tốn so với những gã khổng lồ Trung Quốc và Mỹ. Theo Les Echos, chỉ cần nhìn vào những định giá toàn cầu lớn nhất để thấy châu Âu vắng bóng như thế nào. Pháp, nơi có khoảng 750 start-up về AI với 35.000 người làm việc trong lĩnh vực này, không giấu tham vọng muốn đứng đầu Liên Âu về AI. Tuy nhiên, khi trả lời RFI ngày 10/02, bà Anne Bouverot, đặc phái viên của tổng thống Pháp về Thượng đỉnh Hành động về Trí tuệ Nhân tạo, lưu ý đến tinh thần « tập thể » : « Có những chuyện người ta không thể làm một mình. Dĩ nhiên Pháp có tham vọng đứng đầu về Trí tuệ Nhân tạo và Pháp có nhiều lợi thế. Người ta nói đến Mistral hoặc các công ty khởi nghiệp như Hugging Face, poolside, Pigment… có tầm quan trọng trong lĩnh vực AI, cũng như những tài năng, những nhà nghiên cứu, kĩ sư một cách rất ấn tượng. Chúng ta có vị thế tốt về Trí tuệ Nhân tạo. Nhưng khi nhìn vào những khoản đầu tư cần thiết để phát triển AI thì có rất nhiều việc phải làm theo tập thể, ở tầm mức châu Âu » . Tổng thống Macron muốn Pháp và Liên Hiệp Châu Âu tiến nhanh theo « mô hình tái thiết nhà thờ Đức Bà Paris » trong 5 năm, huy động mọi nguồn lực để bù khoảng thời gian chậm trễ so với Mỹ và Trung Quốc. Theo chuyên gia Charleyne Biondi , Viện Montaigne, châu Âu hiện chỉ chiếm 18% trung tâm dữ liệu trên thế giới, chưa đầy 5% trong số này là thuộc về các doanh nghiệp châu Âu, phần còn lại đều thuộc về các đại tập đoàn Mỹ như AWS, Google và Microsoft Azure. Ngày 11/02, chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen công bố một « chiến lược châu Âu về AI » với ngân sách 200 tỉ euro, mục đích là để « tăng tốc » , « đơn giản hóa quy định » và « tăng cường thị trường chung duy nhất » , cùng với nhiều biện pháp khác.…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Trao đổi học thuật : Công cụ « quyền lực mềm » chưa khai thác hết của Đài Loan 12:24
12:24
Main Kemudian
Main Kemudian
Senarai
Suka
Disukai12:24![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Trong những năm gần đây, Đài Loan thu hút ngày càng đông học viên nước ngoài đến nghiên cứu về ngành Hán học, công nghệ bán dẫn cũng như là nhiều ngành học khác. Đây là một phần trong chiến lược thúc đẩy trao đổi học thuật với thế giới được tiến hành từ năm 2004 nhằm phá thế cô lập ngoại giao của Trung Quốc đối với hòn đảo. Theo trang Geopolitica, trước sức ép ngày càng lớn từ Trung Quốc, chính quyền Đài Bắc từ đầu những thập niên 2000 đã xác định « trao đổi học thuật là một công cụ hiệu quả cho chiến lược quyền lực mềm », và các chương trình học bổng quốc tế là những nguồn lợi ích to lớn giúp nâng cao hình ảnh Đài Loan trên trường thế giới. Và ngành nghiên cứu Hán học là một trong số thế mạnh mới để tăng thêm sức hấp dẫn cho Đài Loan. Hán học – Thế mạnh cho quyền lực mềm Đài Loan Trong chiến lược này, năm 2004, chính quyền Đài Bắc công bố « Chương trình học bổng Đài Loan và học bổng bồi dưỡng Hoa ngữ », một dự án chung của bộ Giáo Dục, bộ Ngoại Giao và bộ Khoa học – Công nghệ, liên quan đến các lĩnh vực giáo dục, ngoại giao, kinh tế, công nghệ và đổi mới học thuật. Các cơ sở học thuật như Viện Hàn Lâm Đài Loan, Học Viện Đài Loan cũng lần lượt được thành lập trong những năm sau đó. Mục tiêu của chương trình là nhằm thu hút sự quan tâm của sinh viên nước ngoài đối với tiếng Quan Thoại của Đài Loan, và chữ viết Trung Quốc truyền thống, cũng như là tăng cường sự hiểu biết của sinh viên nước ngoài về văn hóa và lịch sử phát triển Đài Loan. Ngoài ra, những chương trình trao đổi này sẽ giúp thiết lập và củng cố các mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa Đài Loan và các nước khác, thúc đẩy trao đổi kinh tế, thương mại, giáo dục và văn hóa, đồng thời cải thiện khả năng cạnh tranh toàn cầu cũng như là tầm nhìn quốc tế của Đài Loan. Ngoài chương trình bồi dưỡng Hoa ngữ, bộ Ngoại Giao Đài Loan còn thành lập Học bổng Đài Loan vào năm 2010, cấp cho các chuyên gia và học giả nước ngoài nào có quan tâm đến các nghiên cứu về Đài Loan, quan hệ xuyên eo biển, khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Hán học. Làm thế nào Đài Loan có thể thu hút ngày càng đông giới du học sinh và học giả đến hòn đảo để nghiên cứu ? Thông tín viên Nguyễn Giang trong năm 2024 đã có dịp đến Đài Loan dự các khóa đào tạo ngắn hạn, các cuộc trao đổi giữa các học giả và qua tham quan các bảo tàng, ghi nhận rằng, « lịch sử phát triển của Đài Loan gắn liền với sự phát triển của đế chế Nhật Bản. Trong hơn 40 năm, từ năm 1895 đến trước Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản đã là chủ của Đài Loan. Hòn đảo này là một thuộc địa kiểu mẫu (…) Cho đến hiện tại, nhiều giáo sư Nhật Bản vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với đảo Đài Loan (…) ». Từng là một trong số 8 trường đại học Đế quốc của Nhật Bản thuở xưa, trường Đại học Quốc gia Đài Loan – NTU, giờ là một cơ sở học thuật lớn nhất đảo. Cũng theo TTV. Nguyễn Giang, hòn đảo này có thể phát triển ngành nghiên cứu Hán học là nhờ vào nguồn sách vở, kiến thức quý báu và đội ngũ các giáo sư đầu ngành nổi tiếng của Bắc Kinh, Nam Kinh mà Tưởng Giới Thạch đã có thể đem theo khi chạy lánh nạn ra đảo Đài Loan. Ngoài ra, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã biết cách bảo tồn, gìn giữ các cơ sở giáo dục cũng như là sách vở ngành Nhật Bản học của người Nhật, cho phép tạo dựng một nền tảng cơ bản vững chắc phát triển mạnh nền giáo dục. « Khi ông Tưởng Giới Thạch có những ý tưởng ngông cuồng muốn tái chiếm Đại Lục và sau khi nhận thấy không thể tái chiếm Đại Lục, rồi không được tham gia cuộc chiến Triều Tiên, Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan) tập trung vào phát triển giáo dục và công nghiệp hóa rất nhanh. Trên cơ sở này, Đài Loan mới được hưởng lợi, nghĩa là họ bắt đầu được tiếp thu 100% hệ thống giáo dục của Mỹ. » Công nghệ bán dẫn – Một sức hấp dẫn khác Ngoài việc có một nền Hán học sâu rộng, đức tính kỷ luật cao trong lao động, sự cần cù, giỏi toán và nhờ có được một địa thế tốt, « việc người dân Đài Loan biết cách bảo vệ môi trường đã tạo nên tiền đề cho việc phát triển ngành bán dẫn ». Thành phố Tân Trúc được chọn làm nơi đặt trụ sở của TSMC, đơn giản chỉ vì khu vực này được đánh giá là có « nguồn nước và không khí rất sạch ». Lợi thế này đã cho phép Đài Loan phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tiên tiến nhất, mở rộng đầu tư sang cả Nhật Bản và bang Arizona của Hoa Kỳ. Nhìn chung Đài Loan có thể đạt đến đỉnh cao so với các nước Đông Nam Á, nhờ vào « một nền Hán học sâu rộng (…) vốn dĩ phức tạp hơn chữ Hán giản thể của Trung Quốc, một hệ thống toán theo mô hình Mỹ - Nhật, cùng với việc kết hợp sáng tạo riêng của Đài Loan ». Với những ưu thế này, Đài Loan bắt đầu thu hút ngày càng đông đảo sinh viên các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Indonesia và xa hơn là Ấn Độ. « Điều thú vị là sinh viên các nước Đông Bắc Á như Nhật Bản và Hàn Quốc cũng bắt đầu sang học rất nhiều. Điều này chứng tỏ là nền giáo dục và đào tạo Đài Loan có một sức hấp dẫn . » Dù vậy, thông tín viên Nguyễn Giang nhận thấy rằng dường như công cụ « quyền lực mềm » này vẫn chưa được Đài Loan phát huy hết mức. « Người Đài Loan cũng còn hơi xấu hổ hay chưa quá tự tin về vấn đề này (…) Đây là một quyền lực mềm mà Đài Loan chưa ý thức được là họ giỏi hơn các nước khác như thế nào . »…
Pháp sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng đường sắt cao tốc. Đây là lĩnh vực mà Pháp có thế mạnh và Việt Nam có kế hoạch thực hiện trong khuôn khổ dự án lên đến 67 tỷ đô la với tổng chiều dài toàn tuyến khoảng 1.541 km, tốc độ thiết kế 350 km/giờ. Hai nước đã ký Bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực Giao thông-Vận tải nhân nhân chuyến công du Pháp của tổng bí thư-chủ tịch nước Tô Lâm từ ngày 03-07/10/2024. Hệ thống đường sắt hiện nay ở Việt Nam được xây từ thời Pháp thuộc. Tuyến xe lửa đầu tiên “Sài Gòn-Mỹ Tho được khởi công tháng 11/1881 và đưa vào sử dụng từ ngày 20/07/1885” (*). 130 năm sau, Việt Nam vẫn sử dụng đường sắt khổ 1.000 mm có từ thời đó. Tuy nhiên, kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc, sử dụng khổ 1.435 mm sẽ làm thay đổi hoàn toàn phương tiện giao thông trọng điểm này và góp phần chống biến đổi khí hậu, mà Việt Nam là một trong những quốc gia không phải là đảo bị tác động nghiêm trọng. TGV Pháp giữ kỷ lục tốc độ hơn 40 năm Cũng trong suốt gần 1,5 thế kỷ này, ngành đường sắt Pháp phát triển không ngừng và vẫn giữ kỷ lục về tốc độ tàu cao tốc TGV (train à grande vitesse). Thực ra, Nhật Bản là nước tiên phong về tàu cao tốc khi vận hành tàu Shinkansen đầu tiên ngày 01/10/1964 nối Osaka và Tokyo có tốc độ 210 km/giờ. Tại châu Âu, Đức và Ý cũng lao vào cuộc đua tốc độ. Các kĩ sư Pháp thì như ngồi trên lửa. Năm 1970, kĩ sư Jean Bertin có tầm nhìn xa đã thử nghiệm thành công phát minh Aérotrain - tàu hàng không - được khởi động đầu thập niên 1960 và được coi là “anh cả” của tàu TGV hiện nay. Tàu chạy dọc theo đường ray riêng (monorail, hình chữ “T” ngược). Nhờ được trang bị động cơ máy bay, Aérotrain như lướt trên đường và lập tốc độ kỷ lục thế giới 430 km/giờ khi chạy thử ở phía bắc Orléans, tỉnh Loiret. Kĩ sư Jean Bertin giải thích : “Toa tàu được các đệm khí hỗ trợ và dẫn đường. Những đệm khí này được tạo ra bởi những chiếc quạt chạy bằng động cơ có công suất rất lớn. Và một khi có được lực nâng này, đoàn tàu có thể di chuyển với tốc độ xấp xỉ tốc độ mà chúng tôi mong muốn” . Năm 1974, công ty của Jean Bertin ký hợp đồng đầu tiên với chính phủ Pháp nối hai thành phố Cergy và La Défense, ở ngoại ô Paris. Nhưng chỉ một tháng sau, tổng thống mới Valéry Giscard d’Estaing hủy hợp đồng được ký dưới thời người tiền nhiệm Georges Pompidou vì chi phí quá cao. Trong chương trình “Những câu chuyện thế kỷ của bản tin thời sự 19/20 giờ” ngày 28/12/1999, đài truyền hình France 3 Orléans giải thích về “thất bại bị lãng quên” của Aérotrain : “Giấc mơ Aérotrain sớm vấp phải thực tế : chi phí quá cao, các vấn đề về cơ sở hạ tầng nhưng trên hết là sự cạnh tranh trực tiếp từ tàu cao tốc TGV. Chính phủ đã chọn đầu tư vào TGV, được coi là thực tế hơn và ít rủi ro hơn. Năm 1977, sau nhiều năm thử nghiệm và hy vọng không trọn vẹn, cuộc phiêu lưu của Aérotrain chấm dứt” . Kĩ sư Jean Bertin qua đời một năm sau đó vì ung thư. Để tiếp tục cuộc đua với Nhật Bản, công ty đường sắt quốc gia Pháp SNCF đặt cược vào Turbotrain, một công nghệ cũng được nhiều nước sử dụng. Mỗi động cơ được trang bị hai tua bin chạy bằng khí đốt. Thế nhưng người anh thứ hai của TGV hiện nay cũng bị cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 quật ngã. Tuy nhiên, thành công của Turbotrain đã mở đường cho những nghiên cứu về tàu chạy bằng điện, hiện đại hơn, sang trọng hơn để có thể cạnh tranh với những phương tiện mới, như máy bay, ô tô... nhanh hơn, tiện lợi hơn, không ngừng bùng nổ sau Thế Chiến II. Các kĩ sư của SNCF muốn biến TGV như “sấm trời” (tonnerre de Dieu), theo giải thích của nhà sử học Clive Lamming, chuyên về lịch sử đường sắt, với trang Le Monde ngày 20/04/2018 : “Một số kỹ sư đam mê tốc độ ở SNCF đã thực hiện một thử nghiệm vào năm 1955 với tốc độ 331 km/giờ ở Landes. Thử nghiệm thành công và chứng minh rằng tàu có thể chạy nhanh và cũng sẽ cứu được ngành đường sắt ở Pháp. Tàu cao tốc sẽ giúp khôi phục lại hình ảnh của “thương hiệu” SNCF nhờ sự giúp đỡ của những người bạn “tuyệt vời” - những nước sản xuất dầu mỏ đã tăng giá dầu lên gấp 4 lần vào 1973. Nhưng con tàu không cần dầu bởi vì đã có “than trắng” - tức là điện hạt nhân - được tướng De Gaulle quyết định phát triển sau Thế Chiến II. Ngành đường sắt tiêu thụ điện quốc gia. Đường sắt bỏ than để sử dụng điện” . Theo trang web SNCF , nhà thiết kế Jacques Cooper là người phác thảo các đặc điểm của con tàu tương lai trong “dự án C03”, lấy cảm hứng từ xe Porsche Murène. Ngoài tốc độ cao mà nguyên mẫu này có thể đạt tới, cải tiến lớn nhất là khái niệm về đoàn tàu “có khớp nối” và không thể biến dạng… Sau này, những lựa chọn đó khiến TGV trở thành con tàu an toàn nhất thế giới. TGV cũng được sơn đúng màu da cam như xe Porsche Murène. Hai đoàn tàu TGV đầu tiên được Nhà nước đặt hàng năm 1975. Các cuộc thử nghiệm hoàn tất năm 1978. Ngày 26/02/1981, TGV phá vỡ kỷ lục thế giới với vận tốc 380 km/giờ. Bẩy tháng sau, đích thân tổng thống François Mitterand khánh thành tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên tại Pháp nối Paris-Lyon vào ngày 22/09/1981. Con tàu đạt vận tốc 260 km/giờ như dự kiến. Lần thứ hai TGV phá kỷ lục thế giới về vận tốc đường sắt là vào ngày 18/05/1990. Chuyến TGV 325 đạt đến vận tốc 515,3 km/giờ ở gần ga Vendôme nằm trên tuyến đường sắt cao tốc thứ hai - TGV Atlantique - được đưa vào hoạt động tháng 09/1989. Cho dù từ năm 2003, Maglev - một mô hình nâng từ trường của Nhật Bản - giữ kỷ lục vận tốc tuyệt đối là 581,2 km/giờ. Nhưng chính TGV của Pháp một lần nữa lại phá vỡ kỷ lục thế giới trên đường ray. Ngày 03/04/2007, tàu V150 của Alstom đã đạt vận tốc 574,8 km/giờ sau 42 lần thử trong sáu tuần (bắt đầu từ ngày 15/01/2007) trên tuyến Strasbourg-Paris. Kỷ lục này vượt xa mục tiêu 540 km/giờ được đặt ra ban đầu (V150 : tốc độ 150 mét/giây, tức là 540 km/giờ). Tuy nhiên, theo Le Monde ngày 03/04/2007, vì lý do hao mòn và bảo trì đường sắt, Mạng lưới đường sắt Pháp (RFF, cơ quan quản lý hạ tầng đường sắt được tách khỏi tập đoàn SNCF từ 1997-2015) không cho phép công ty SNCF vượt quá quy định 300 km/giờ, riêng tuyến TGV Est (Paris-Strasbourg) được phép lên tới 320 km/giờ. TGV “thu nhỏ ” nước Pháp, “ phá vỡ ” biên giới châu Âu Trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 28/05/2021, kỹ sư Tạ Quang Anh, công tác tại SNCF nhận định : “ Sự ra đời của TGV mở đầu một giai đoạn phát triển đột phá mới của ngành đường sắt Pháp. Khác với giai đoạn đột phá về hạ tầng nửa cuối thế kỷ 19, TGV đã “ thu nhỏ ” nước Pháp và thậm chí châu Âu trong bán kính 3-4 giờ đi lại. Trong giai đoạn 1990-2010, nhiều tuyến TGV trong nước được khánh thành, tiếp theo là các tuyến quốc tế, đáng chú ý là tuyến Eurostar chạy qua 50 km đường hầm eo biển Manche sang Anh Quốc (1994) , tuyến Thalys đi sang Bỉ và Hà Lan… Trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ 20, việc vận hành tuyệt đối an toàn 400 nghìn tấn thép trên đường ray ở vận tốc 320 km/giờ luôn là một biểu tượng công nghệ trong ngành vận tải hành khách mặt đất. Công nghệ TGV được xuất khẩu, chuyển giao ra nhiều nước : ở châu Âu như sang Tây Ban Nha, sang Hoa Kỳ, Maroc và cả Hàn Quốc. Đối với người Pháp, TGV là một “ niềm tự hào dân tộc ” . Theo một thăm dò dư luận trong dân chúng Pháp, TGV được coi là một trong những phát minh quan trọng nhất trong thế kỷ 20, cùng với máy tính, điện thoại di động và lò vi sóng ”. Đọc thêm : Đường sắt Pháp, câu chuyện về tầm nhìn và sự sáng tạo Từ ngày 16/12/2024, hai thủ đô Berlin của Đức và Paris của Pháp đã được nối bằng tàu cao tốc trong 8 tiếng. Tham vọng trong năm 2025 của tập đoàn SNCF là đưa vào hoạt động tàu cao tốc sinh thái - TGV M (modulable) - được coi là sự tập trung của nhiều đổi mới : tái chế đến 97%, có khả năng điều chỉnh việc sử dụng năng lượng trên tàu, 100% kết nối... Loại tàu thế hệ thứ 5 này do tập đoàn Alstom phát triển, được cho là sẽ giảm mức tiêu thụ năng lượng 20% và cải thiện lượng khí thải carbon thêm 37% mỗi năm so với các đoàn tàu hiện tại. 115 đoàn tàu được đặt hàng (trong đó có 15 theo phiên bản quốc tế) sẽ lần lượt được đưa vào lưu thông trong vòng 10 năm. Do kinh phí rất lớn nên tàu cao tốc không phổ biến trên quy mô thế giới. Ngoài phải cạnh tranh với Shinkansen của Nhật Bản, TGV của Pháp chật vật đối phó với Trung Quốc, cường quốc tàu cao tốc với hơn 40.000 km đường sắt cao tốc, rộng nhất thế giới. Ngay sau khi Việt Nam có dự án huyết mạch Bắc-Nam trị giá 67 tỷ đô la, hai tập đoàn lớn của Trung Quốc - Tập đoàn xây dựng giao thông Trung Quốc (CCCC) và Tập đoàn Xây dựng công trình đường sắt Trung Quốc (CRCC) - cùng ngỏ ý tham gia. (*) Hoàng Thị Hiền, “Hệ thống đường sắt ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc”, Xưa Nay , số 436 tháng 09/2013.…
Trong những năm gần đây, Đông Nam Á đã trở thành một điểm nóng của các hoạt động tội phạm có tổ chức, đặc biệt là đường dây lừa đảo trực tuyến, chủ yếu do các băng nhóm có tổ chức Trung Quốc cầm đầu. Nhiều người bị dụ dỗ, cưỡng bức đến làm việc tại các trung tâm lừa đảo ở Miến Điện, Cam Bốt, để đi lừa đảo những người cả tin khác, bằng những thủ đoạn công nghệ tinh vi. Hồi đầu tháng 1/2025, một vụ việc gây chấn động dư luận Trung Quốc và khu vực liên quan đến nam diễn viên Trung Quốc Vương Tinh Việt (Wang Xing). Theo truyền thông Trung Quốc, Vương Tinh Việt rời khỏi Trung Quốc đến Thái Lan theo một lời mời tham gia quay phim. Tuy nhiên, sau đó anh mất tích tại Mae Sot, một thị trấn biên giới giữa Thái Lan và Miến Điện. Sau khi điều tra, cảnh sát Thái Lan xác nhận rằng nam diễn viên Trung Quốc này là nạn nhân của một đường dây buôn người. Trong một video do truyền thông Trung Quốc đăng tải, anh cáo buộc một nhóm đàn ông có vũ trang đã bắt cóc anh, đưa anh đến biên giới Miến Điện và giam giữ anh trong một tòa nhà cùng với nhiều nạn nhân khác mang quốc tịch khác nhau. Vụ việc của Vương Tinh Việt đã gây xôn xao công luận tại Trung Quốc, một lần nữa làm dấy lên mối lo ngại về tình trạng buôn người và cưỡng bức lao động tại các trung tâm lừa đảo trực tuyến ở khu vực Đông Nam Á. Đáp lại, chính phủ Trung Quốc đã tăng cường trấn áp các tổ chức lừa đảo xuyên biên giới. Ngày 16/01/2025, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã kêu gọi các quốc gia Đông Nam Á phối hợp mạnh tay để đối phó với tội phạm lừa đảo qua mạng. Trong một cuộc họp tại Côn Minh (Trung Quốc), quan chức từ các nước Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Cam Bốt, Thái Lan và Việt Nam đã nhất trí triệt phá các trung tâm lừa đảo trực tuyến, phối hợp bắt giữ các đối tượng cầm đầu, giải cứu và hồi hương các nạn nhân bị lừa sang nước ngoài. Đọc thêm Thái Lan cắt điện nhiều khu vực tại Miến Điện để ngăn nạn lừa đảo qua mạng Một báo cáo của Liên Hiệp Quốc chỉ ra rằng hàng trăm nghìn người đã bị các băng nhóm tội phạm dụ dỗ và buộc phải làm việc tại các trung tâm lừa đảo và hoạt động trực tuyến bất hợp pháp trên khắp Đông Nam Á. Một báo cáo năm 2023 của Liên Hiệp Quốc ước tính các hoạt động phát triển nhanh chóng này tạo ra hàng tỷ đô la mỗi năm. Tại Việt Nam, nhiều vụ lừa đảo dụ dỗ người lao động ra nước ngoài đã được truyền thông trong nước phản ánh. Đặc biệt, các nhóm tội phạm thường lợi dụng tâm lý muốn tìm « việc nhẹ lương cao » để đưa người sang Cam Bốt, Philippines, Thái Lan, nơi họ bị ép buộc làm việc trong các đường dây lừa đảo trực tuyến được cho là do tội phạm Trung Quốc điều hành. Nhiều nạn nhân cho biết họ bị giam giữ, phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt và nếu không tuân theo, họ có thể bị hành hạ, tra tấn tàn bạo. Năm 2022, công luận rất chú ý tới vụ 40 người Việt tháo chạy khỏi sòng bạc (casino) ở Cam Bốt, bơi qua sông Bình Di để về Việt Nam. Vụ việc phơi bày thực trạng buôn người và cưỡng bức lao động trong các tổ chức tội phạm xuyên biên giới. Theo báo chí trong nước, hồi tháng Một vừa qua, cảnh sát Việt Nam cũng đã bắt giữ hai phụ nữ Việt, chuyên dụ dỗ lừ các nạn nhân sang Cam Bốt làm việc tại các công ty trái phép. RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn bà Sharlene Chen, giám đốc nghiên cứu tại tổ chức Humanity Research Consultancy (HRC), một công ty tư vấn có trụ sở tại Anh Quốc, chuyên về đào tạo, nghiên cứu và vận động chính sách chống chế độ nô lệ hiện đại và nạn buôn người. HRC hợp tác với các chính phủ, đại sứ quán, các tổ chức tư nhân và các tổ chức phi chính phủ để giải quyết các vấn đề như lao động cưỡng bức, vi phạm quyền lao động và lừa đảo trực tuyến. Xin cảm ơn bà Sharlène Chen đã dành thời gian trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt. Trước tiên bà có thể cho biết tại sao khu vực Đông Nam Á, gần đây lại được coi là điểm nóng, trung tâm của lừa đảo online ? Vấn đề này có thể bắt nguồn từ các yếu tố kinh tế và địa chính trị. Dự án Một vành đai một con đường của Trung Quốc đã mang lại những khoản đầu tư lớn từ Trung Quốc vào khu vực Đông Nam Á. Nhưng thật không may, điều đó cũng đồng nghĩa với việc một số nhóm tội phạm Trung Quốc có tổ chức xuyên quốc gia, cũng đang tràn vào các quốc gia này, ở Cam Bốt, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Philippines. Trước đại dịch Covid-19, Cam Bốt có cả một ngành công nghiệp, kinh doanh sòng bài và giải trí, nhưng sau khi nước này ra lệnh cấm chơi cờ bạc tại casino hay trực tuyến, nhiều sòng bài, khách sạn 5 sao đã bị bỏ trống, các nhà đầu tư rút về nước, tạo ra cơ hội cho các nhóm tội phạm có tổ chức sử dụng những nơi đó cho các hoạt động phạm tội, trong đó có lừa đảo trực tuyến. Một yếu tố quan trọng khác là tình trạng thực thi pháp luật yếu kém và nạn tham nhũng ở một số quốc gia này, tạo điều kiện cho các tổ chức lừa đảo hoạt động, không quá lo lắng bị can thiệp. Các nhóm tội phạm cũng đã điều chỉnh chiến thuật, chuyển từ các hoạt động lừa đảo tài chính truyền thống, sang các biện pháp hung hăng hơn, cưỡng bức người đến làm việc, để thực hiện các vụ lừa đảo trên nhiều ứng dụng hẹn hò, nền tảng truyền thông xã hội khác nhau để lừa tiền của các nạn nhân. Vì vậy, ở đây chúng ta thấy hai loại nạn nhân khác nhau : nạn nhân buôn người, những người đã bị dụ dỗ vào khu phức hợp lừa đảo và bị ép buộc phạm tội, và những nạn nhân bị những tên tội phạm này lừa đảo tài chính. Các trung tâm lừa đảo hoạt động như thế nào ? Các mạng lưới lừa đảo thường được điều hành trong các khu phức hợp lớn hoạt động tương tự như các tòa nhà văn phòng. Các khu phức hợp này cho thuê không gian cho các công ty lừa đảo, giống như cách các trung tâm thương mại cho thuê cửa hàng cho các thương hiệu khác nhau. Chủ sở hữu khu phức hợp cung cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, Wi-Fi và an ninh, trong khi các công ty lừa đảo tiến hành các hoạt động gian lận của họ. Trong nhiều trường hợp, những chủ sở hữu khu phức hợp này cũng hối lộ các quan chức thực thi pháp luật địa phương để tránh các cuộc đột kích và bắt giữ. Những tên tội phạm điều hành các vụ lừa đảo tạo ra các nhóm có cấu trúc, chia nhóm, mỗi nhóm chịu trách nhiệm các vai trò khác nhau, bao gồm nhắm mục tiêu vào nạn nhân, rửa tiền và quản lý các nền tảng đầu tư giả mạo. Bà đề cập đến việc các nhóm tội phạm Trung Quốc xâm nhập các quốc gia này, điều hành các mạng lưới lừa đảo. Liệu có bằng chứng cụ thể về việc những băng đảng phạm tội có tổ chức do người Trung Quốc cầm đầu ? Trong những năm gần đây, chính quyền Lào, Philippines và Cam Bốt đã trục xuất hàng nghìn công dân Trung Quốc bị tình nghi điều hành các hoạt động lừa đảo. Lời khai của những người sống sót sau khi trốn thoát khỏi các khu phức hợp lừa đảo này xác nhận rằng nhiều người trong số họ được quản lý bởi những người nói tiếng Hoa. Cần lưu ý là không phải tất cả những kẻ cầm đầu đều đến từ Trung Quốc. Một số tổ chức tội phạm có thể là người Malaysia, Singapore và Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc. Những nhóm này khai thác các khu kinh tế của Đông Nam Á và sự giám sát yếu kém của cơ quan quản lý để mở rộng mạng lưới của họ. Bà có thể nêu ra một số chiến thuật lừa đảo trực tuyến được sử dụng ? Một trong những chiến thuật được sử dụng từ nhiều năm qua là thông qua các nền tảng nhắn tin Telegram hay mạng xã hội để tuyển dụng nạn nhân. Nhiều tổ chức lừa đảo đăng tin tuyển dụng giả mạo hứa hẹn mức lương cao ở các nước Đông Nam Á. Những người trẻ tuổi tìm kiếm việc làm đã bị lừa bởi những quảng cáo này, và bị cưỡng bức đưa vào các khu phức hợp lừa đảo, bị buộc phải đi lừa đảo người khác. Dù không liên quan, nhưng chiến thuật này cũng đã được sử dụng trong các vụ cưỡng bức hôn nhân. Một số phụ nữ Miến Điện đã bị dụ dỗ bằng những lời hứa về công việc lương cao ở Trung Quốc, và bị buôn bán và rơi vào các cuộc hôn nhân cưỡng bức. Sự phát triển của các loại công nghệ hiện đại, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo và phương tiện truyền thông xã hội, đã hỗ trợ các nhóm tội phạm thực hiện lừa đảo như thế nào ? Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc khiến những trò lừa đảo này trở nên hiệu quả hơn. Tội phạm mạng sử dụng công nghệ deepfake và hình ảnh do AI tạo ra để tạo ra những nhân vật giả, thường là những người có ngoại hình hấp dẫn hoặc doanh nhân thành đạt để dụ dỗ nạn nhân vào các vụ lừa đảo tình cảm hoặc đầu tư. Một số trò lừa đảo thậm chí còn liên quan đến việc thu thập mẫu giọng nói từ các nền tảng truyền thông xã hội như TikTok và Instagram. Sau đó, các nhóm tội phạm có thể sử dụng AI để tạo các cuộc gọi video giả, lừa các thành viên trong gia đình nạn nhân tin rằng họ đang gặp nguy hiểm và yêu cầu trả tiền chuộc. Những chiến thuật này khiến trò lừa đảo trở nên thuyết phục hơn và khó phát hiện hơn. Một trong những khía cạnh gây sốc trong mạng lưới lừa đảo trực tuyến, xuyên quốc gia ở Đông Nam Á, đó là nhiều kẻ lừa đảo trên thực tế cũng là nạn nhân. Bà có thể giải thích về điều này được không ? Trên thực tế, đây là một trường hợp điển hình về tội phạm cưỡng bức, có nghĩa việc bị ép buộc tham gia vào bất kỳ hoạt động tội phạm nào. Chúng tôi mong muốn tất cả các nạn nhân của tội phạm cưỡng bức, sẽ không bị coi là tội phạm và do vậy, họ cần được bảo vệ, được bảo vệ như những người sống sót sau nạn buôn người, thay vì bị buộc tội là kẻ lừa đảo. Làm thế nào mà những nhóm tội phạm có thể dụ dỗ, thao túng người đến làm việc, tiến hành lừa đảo? Ban đầu, các nhóm tội phạm đưa ra những hình ảnh về cuộc sống xa hoa, với xe sang, khách sạn 5 sao…, để thu hút các nạn nhân, đến Cam Bốt hay Thái Lan làm việc cho họ. Ngay khi họ đến nơi, họ nhận ra rằng không hề có khách sạn 5 sao nào cả, không hề có công việc về lập trình web hay chăm sóc khách hàng nào và họ đã bị lừa. Công việc thực tế mà họ phải làm là trở thành kẻ lừa đảo. Một khi bị mắc bẫy, họ phải chịu những điều kiện tàn bạo, bao gồm giờ làm việc dài, bạo hành thể xác và hình phạt nghiêm khắc nếu họ không đạt được chỉ tiêu lừa đảo. Chúng tôi đã ghi nhận các trường hợp nạn nhân kể lại về việc phải làm cùng 40 người khác, bị chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm chịu trách nhiệm lừa đảo một số tiền tối thiểu, thường là 200.000 đô la mỗi tháng. Nếu họ không đạt được chỉ tiêu thì sẽ bị đánh đập, bị tra tấn điện hoặc bị buộc phải đứng dưới nắng trong nhiều giờ. Sự ngược đãi về mặt tâm lý và thể xác, thao túng tâm lý họ, để không thể chạy trốn. Những nhóm lừa đảo này thường nhắm tới đối tượng nào để tuyển dụng ? Nhóm người nào dễ bị dụ dỗ hơn ? Hầu hết nạn nhân đều từ 18 đến 40 tuổi, thường là những người trẻ tuổi, có thể nói là ngây thơ, thiếu kinh nghiệm ra nước ngoài. Nhiều người muốn tìm kiếm việc làm ở nước ngoài lương cao, và bị lừa bởi các quảng cáo việc làm giả mạo. Nhiều nạn nhân bị dụ dỗ đi lừa đảo cũng có những kỹ năng ngôn ngữ hay công nghệ cao, được tuyển dụng để có thể giao tiếp với các đối tượng là người phương Tây hoặc tạo nội dung lừa đảo bằng các công cụ AI. Mặc dù một số lượng lớn nạn nhân đến từ Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện và Philippines, nhưng chúng tôi cũng ghi nhận nhiều nạn nhân từ châu Phi, đặc biệt là Kenya, Uganda và Ethiopia. Mặc dù đã có nhiều vụ đột kích phá vỡ các trung tâm lừa đảo của cảnh sát tại nhiều nước, nhưng tại sao các hoạt động này vẫn tiếp tục phát triển ? Các mạng lưới lừa đảo có khả năng thích ứng cao. Khi chính quyền phá vỡ một hang ổ nào, tội phạm chỉ cần di dời hoạt động sang một quốc gia khác. Ví dụ, nhiều hoạt động đã chuyển từ Cam Bốt sang Miến Điện, Lào và thậm chí là Dubai. Ngoài ra, Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc đã tạo ra các đặc khu kinh tế ở Đông Nam Á, một số nơi này đã trở thành chỗ ẩn náu an toàn cho các tổ chức lừa đảo do sự giám sát lỏng lẻo. Bà có lời khuyên nào cho mọi người để tránh bị lừa đảo trực tuyến không? Biện pháp tốt nhất là nâng cao nhận thức và thận trọng. Đối với những người tìm việc, cần phải luôn xác minh các lời mời làm việc. Ngay cả trên các nền tảng chuyên nghiệp như LinkedIn, vẫn có tình trạng lừa đảo. Người dùng mạng xã hội nên tránh chia sẻ quá nhiều thông tin cá nhân, bao gồm cả kế hoạch đi lại và bản ghi âm giọng nói. Công chúng không nên dễ dàng tin vào các cơ hội đầu tư nghe có vẻ quá tốt, quá hấp dẫn để trở thành sự thật. Các công ty công nghệ, nền tảng mạng xã hội, cũng phải chịu trách nhiệm lớn hơn, bằng cách cải thiện việc kiểm duyệt nội dung để phát hiện và xóa các thông báo tuyển dụng, việc làm gian lận và quảng cáo lừa đảo. Đây là vấn đề toàn cầu đòi hỏi sự hợp tác quốc tế chặt chẽ hơn. Chính phủ, các công ty công nghệ và các tổ chức tài chính phải hợp tác với nhau để phá bỏ các mạng lưới này và bảo vệ nạn nhân của tội phạm cưỡng bức.…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
Trong nhiệm kỳ đầu tiên (2017-2021), lập trường cũng như những chính sách chống Trung Quốc của tổng thống Mỹ Donald Trump, đã làm dấy lên làn sóng kỳ thị người Trung Quốc và người châu Á nói chung. Trong nhiệm kỳ thứ hai, bắt đầu ngày 20/01/2025, Donald Trump vẫn tiếp tục chỉ trích gay gắt Trung Quốc, khiến cộng đồng gốc Á ở Hoa Kỳ lo ngại trước nguy cơ một lần nữa phải đối mặt với nạn kỳ thị chủng tộc. Làn sóng kỳ thị người châu Á một phần được khơi mào bởi Donald Trump từ đại dịch Covid-19, khi tỷ phú Hoa Kỳ sử dụng từ « Kung flu », đánh đồng người Trung Quốc với dịch bệch như một câu bông đùa, giễu cợt, đổ lỗi cho Trung Quốc. Nhiều báo cáo chỉ ra rằng tại Mỹ, người gốc Á bị tấn công vô cớ, bị quấy rối, thậm chí là bị hành hung chỉ vì ngoại hình của họ. Theo số liệu từ Cục Điều Tra Liên Hoa Kỳ FBI, các hành vi phạm pháp, thù hận, có thành kiến, chống lại người châu Á vào năm 2018 là khoảng 148 vụ. Con số này tăng lên 746 vào năm 2021. Báo cáo của Ủy ban vì Quyền Công dân Hoa Kỳ cũng chỉ ra rằng nhiều vụ không được báo cáo. Trong chiến dịch tranh cử vào năm ngoái, Donald Trump đã nhiều lần chỉ trích gay gắt Trung Quốc. Bên cạnh những đe dọa về việc tăng thuế quan và những hạn chế thương mại với Trung Quốc, trong các phát biểu của mình, Donald Trump tiếp tục sử dụng những từ ngữ mang tính khiêu khích, như « Virus Trung Quốc », nhắc lại những hậu quả tiêu cực của đại dịch Covid-19. Cách dùng từ này trước đó đã bị chỉ trích vì thúc đẩy tâm lý bài ngoại, và kích động thù hận với người Trung Quốc và gốc Á. Donald Trump cũng đe dọa trục xuất hàng loạt dân nhập cư bất hợp pháp. Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, có hơn 24 triệu người Mỹ gốc Á, trong đó 4, 7 triệu là người Mỹ gốc hoa. Nhóm người châu Á không giấy tờ cũng tăng mạnh trong những năm gần đây, do số vượt biên kỷ lục. Tờ Washington Post cho biết vào năm 2024, hơn 55 000 người Trung Quốc đã vượt biên trái phép vào Hoa Kỳ qua ngả Mêhicô. Ngoài ra, cũng phải kể đến một chính sách được duy trì từ nhiệm kỳ đầu của Donald Trump là « Sáng kiến Trung Quốc » - một chương trình của bộ Tư Pháp nhằm ngăn ngừa gián điệp và bảo vệ tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ. Theo giới chuyên gia, một tác động phụ của « sáng kiến » này là tình trạng phân biệt chủng tộc đối với người Mỹ gốc Hoa, hay những người gốc Á. Hơn nữa, Hoa Kỳ đã ban hành 16 luật ngăn cấm công dân Trung Quốc mua hoặc sở hữu bất động sản, đất đai ở một số bang như Ohio, Nebraska. Một số thủ tục tố tụng hình sự đã được thực hiện tại Florida, ví dụ, án 5 năm tù đối người Trung Quốc muốn mua nhà và 5 năm tù với người bán. *** RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn giáo sư Russell Jeung , chuyên gia nghiên cứu về châu Á tại đại học San Francisco, Hoa Kỳ. Ông đánh giá như thế nào về nạn kỳ thị, phân biệt chủng tộc người Mỹ gốc Á ? Mọi người có thể thấy rằng những phát ngôn của Donald Trump kích động bạo lực và phân biệt chủng tộc. Ông ấy sử dụng giọng điệu bỡn cợt, với lập trường chống nhập cư và nhất là thái độ chống Trung Quốc, biến Trung Quốc thành kẻ thù số 1 của Hoa Kỳ. Donald Trump đánh đồng chính phủ Trung Quốc với người Trung Quốc ở Hoa Kỳ. Điều này khiến cho mọi người cũng bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ này. Hơn nữa, nhiều người không thể phân biệt người Trung Quốc với những người châu Á khác. Khi Trump đưa ra khái niệm rằng Trung Quốc là kẻ thù số 1 của Hoa Kỳ, là một mối đe doạ, thì cũng khiến nhiều người coi cư dân gốc Á ở Hoa Kỳ là một de dọa… Khi Trump có thể công khai đưa ra những phát ngôn kỳ thị như vậy, thì khiến mọi người nghĩ rằng kỳ thị người gốc Á là một điều bình thường. Do vậy, tôi rất lo ngại rằng nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Trump sẽ khơi dậy lại làn sóng kỳ thị, căm ghét người châu Á. Một trong dữ liệu đáng lo ngại nhất là vào năm 2020, khoảng một phần tư người dân Hoa Kỳ muốn giảm nhập cư, nhưng con số này lên đến một nửa vào năm 2024. Người Mỹ bắt đầu coi nhập cư trở thành vấn đề cần giải quyết hàng đầu, trong khi đó chỉ là một nỗi sợ được thêu dệt, và không thực sự là một vấn đề lớn, ví dụ như biến đổi khí hậu, suy thoái kinh tế hay chiến tranh. Khi diễn biến chính trị ở Hoa Kỳ được toàn thế giới chú ý, lập trường của Donald Trump, chống Trung Quốc cũng có thể bị lan tỏa khắp thế giới ? Tôi đã viết nhiều bài và làm việc với mọi người từ khắp nơi trên thế giới về chủ đề này. Sự kỳ thị căm ghét người châu Á, không chỉ xảy ra ở Hoa Kỳ, mà những bình luận của tổng thống Donald Trump, ví dụ sử dụng từ « virus Trung Quốc », “Kung flu”, đã tạo ra làn sóng kỳ thị người châu Á không chỉ ở Mỹ mà ở nhiều nước khác, ở Úc, Anh, Canada hay ở Pháp. Những làn sóng thù ghét người châu Á xuất hiện ở mọi nơi. Mọi người đổ lỗi cho người Trung Quốc, và nếu ai đó trông giống người Trung Quốc, nếu là người Việt Nam hoặc Hàn Quốc, thì cũng sẽ bị tấn công. Phương tiện truyền thông xã hội loan truyền thông tin nhanh chóng. Do đó, cần phải quan tâm đến vấn đề này không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn cả tác động toàn cầu. Ví dụ, sự gia tăng đó có thể dẫn đến sự phân cực hơn, chia rẽ hơn và có thể là nhiều chiến tranh và xung đột hơn. Và đó là điều đáng sợ. Làn sóng kỳ thị, thù hận người gốc Á tạo ra những hậu quả thế nào đối với những nạn nhân ? Từ những báo cáo và nghiên cứu chỉ ra rằng những người Mỹ gốc Á đã phải trải qua tình trạng kỳ thị, bị xúc phạm, quấy rối vì chủng tộc của mình, hoặc chứng kiến tận mắt, hoặc qua mạng, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý. Họ dễ trở nên trầm cảm, lo lắng. Những người lớn tuổi thì tránh ra ngoài, người trẻ tuổi thì lo sợ. Rõ ràng là tình trạng phân biệt chủng tộc đã tác động mạnh đến sức khoẻ tinh thần Theo một số báo cáo, một nửa người Mỹ gốc Á cảm thấy không an toàn khi ra ngoài chỉ vì chủng tộc của họ. Sự kỳ thị người gốc Á đã trở nên bình thường hoá sau đại dịch Covid -19. Số vụ phân biệt chủng tộc vẫn cao như vậy mà không giảm đi và tình trạng kỳ thị không hề lắng xuống. Có thể tình trạng phân biệt chủng tộc vẫn luôn như vậy, hoặc có lẽ kể từ khi đại dịch xảy ra, hành động phân biệt chủng tộc kỳ thị người châu Á trở nên bình thường hóa. Điều này có tác động đến những người lao động quốc tế gốc Á di cư đến Mỹ như thế nào ? Tôi nghĩ rằng những lao động quốc tế gốc Á cần phải rất thận trọng vì họ có thể bị trục xuất dễ dàng hơn. Loại visa H1B cho người lao động trình độ cao sẽ bị giảm đi, và Donald Trump có khả năng muốn giảm số người lao động nhập cư vào Hoa Kỳ. Nếu họ chưa có được quốc tịch Mỹ thì sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn, bị đe doạ bị trục xuất, gia đình ly tán. Tôi cho rằng mức độ lo lắng sợ hãi hiện nay khá cao trong cộng đồng và họ sẽ cố gắng tránh các tiếp xúc với chính phủ. Phải kể đến một chính sách khác, đối với những người không phải công dân. Khi bị bệnh và đến các trung tâm y tế công, chính quyền Trump đã đưa ra đề xuất là nếu sử dụng các dịch vụ của chính phủ và được hưởng lợi từ đó thì sẽ không thể trở thành công dân Hoa Kỳ. Do đó mọi người phải lựa chọn, một là đi điều trị, hai là trở thành công dân Hoa Kỳ, và một số người lo sợ rằng nếu đi khám bác sĩ thì có khả năng sẽ không được ở lại Hoa Kỳ. Chính sách này ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ. Trước tình trạng nhiều cuộc tấn công nhắm vào người Mỹ gốc Á từ đại dịch Covid-19, hồi 2021, chính phủ của tổng thống Joe Biden đã ban hành luật chống bạo lực kỳ thị chủng tộc, nhằm đẩy nhanh việc xem xét các hồ sơ về bạo lực phân biệt chủng tộc, đặc biệt cho phép giải ngân để cấp kinh phí cho việc lập các đường dây nóng khẩn cấp, kể cả cho những người không nói được tiếng Anh. Liệu những luật như vậy có thể cải thiện tình hình ? Tăng cường luật thực ra là điều gây tranh cãi trong cộng đồng người Mỹ gốc Á. Nếu muốn có thêm luật, thì sẽ dẫn đến việc bắt giữ thêm nhiều người da màu hay bỏ tù họ, điều này được chứng minh là không hiệu quả vì ảnh hưởng đến người da màu. Rất nhiều người trong cộng đồng, ngay cả tôi cũng không ủng hộ ra thêm luật. Chúng tôi muốn các chính sách chống lại phân biệt chủng tộc, gia tăng giáo dục tại trường học, dạy cho mọi người về những trải nghiệm của người gốc Á, về sự đa dạng sắc tộc ở Hoa Kỳ. Chúng tôi mong muốn có thêm những bảo vệ dân sự. Nếu ai đó bị quấy rối trong một cửa hàng thì cả người tấn công và cửa hàng đó phải chịu trách nhiệm. Tôi nghĩ là có cách khác để giảm những hành động căm ghét, kỳ thị người gốc Á xảy ra. Nếu ai đó có hành động phân biệt chủng tộc, chúng tôi muốn ngăn ngừa, thay vì giải quyết sau đó. Chiến thắng của Donald Trump trong đợt bầu cử vào năm 2024, chỉ ra rằng 40 % người gốc Á và 46 % người La Tinh bầu cho vị tỷ phú Hoa Kỳ. Con số này tăng hơn rất nhiều so với cuộc bầu cử hồi 2016 và 2020, bất chấp những phát ngôn gây kích động, phân biệt chủng tộc của Trump từ nhiều năm qua. Ông có lý giải nào cho hiện tượng này hay không ? Có thể thấy là một số bộ phận người Mỹ gốc Á bị thu hút bởi Donald Trump, có thể là vì lý do kinh tế, và bị định hướng bởi các phương tiện truyền thông liên tục đưa tin gây lo sợ trước tình hình nhập cư. Có rất nhiều người nhập cư một cách hợp pháp, và họ nghĩ rằng họ tốt hơn những người đến một cách bất hợp pháp. Điều này tạo ra một sự khác biệt, và họ cảm thấy họ giống với người Mỹ hơn là những người nhập cư bất hợp pháp. Họ cũng cảm thấy tốt hơn. Tôi nghĩ điều này xuất phát từ mong muốn được công nhận ở Hoa Kỳ, họ bị thuyết phục bởi khẩu hiệu « Hãy làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại ». Họ nghĩ rằng : « Ồ tôi cũng là người Mỹ, hãy để nước Mỹ vĩ đại trở lại bằng cách đóng cửa với những ai không phải người Mỹ, những người xấu ». Tôi thấy lối suy nghĩ này thật đáng buồn, vì chẳng khác nào muốn nói rằng để trở thành người Mỹ thì phải coi thường những người không phải người Mỹ. Donald Trump sử dụng chiến thuật chia rẽ để chinh phục, để nói rằng bạn là người tốt, và những người khác là người xấu. Với sự chia rẽ, lo sợ như vậy, mọi người muốn ở phe những người tốt hơn là phe còn lại. Xin cảm ơn ông Russell Jeung, giáo sư tại đại học San Francisco. Ông cũng là đồng sáng lập của tổ chức Stop AAPI Hate , được thành lập vào năm 2020 nhằm đối phó với nạn kỳ thị phân biệt chủng tộc người gốc Á và hỗ trợ các nạn nhân.…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Cà phê Việt Nam trước những thách thức về biến đổi khí hậu 12:56
12:56
Main Kemudian
Main Kemudian
Senarai
Suka
Disukai12:56![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Doanh thu xuất khẩu cà phê của Việt Nam lần đầu vượt ngưỡng 5 tỉ đô la : 5,43 tỉ đô la, mức cao kỷ lục. Báo Courrier du Vietnam ngày 22/10/2024 trích dẫn ông Nguyễn Nam Hải, chủ tịch Hiệp hội cà phê và cacao của Việt Nam (VICOFA), cho biết trong niên vụ cà phê 2023-2024 (từ 01/10/2023 đến 30/09/2024), giá trị xuất khẩu cà phê đã tăng đến 33,1%. Cà phê Việt Nam đang hưởng lợi do nhu cầu thế giới tăng, giá cà phê tăng ở mức cao kỷ lục, trong khi sản lượng cà phê của Brazil, nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới sụt giảm mạnh do hạn hán nặng trong bối cảnh biến đổi khí hậu nghiêm trọng. Hồi tháng 06/2024, nhiều báo nước ngoài nhìn nhận ngành trồng cà phê của Việt Nam, đứng thứ hai thế giới, đa phần là cà phê Robusta, đang đứng trước nhiều cơ hội cạnh tranh với cà phê Arabica, vốn chịu tác động mạnh mẽ hơn từ biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, số liệu về xuất khẩu cà phê Việt nam nói trên không có nghĩa là ngành trồng cà phê Việt Nam không bị tác động bởi biến đổi khí hậu : lượng cà phê Việt Nam xuất khẩu chỉ đạt khoảng 1,46 triệu tấn, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm trước đó. Để hiểu thêm về tình hình, RFI tiếng Việt hồi tháng 06/2024 đã có cuộc phỏng vấn tiến sĩ Clément Rigal, nhà nông học, chuyên gia về cây cà phê và nông lâm kết hợp của Trung tâm Hợp tác Quốc tế về Nghiên cứu Nông nghiệp Phục vụ Phát triển (Cirad - Pháp), chi nhánh tại Việt Nam. RFI Tiếng Việt : Thưa TS. Clément Rigal, ông là nhà nông học, chuyên gia về cây cà phê và nông lâm kết hợp, thuộc Trung tâm hợp tác quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp phục vụ phát triển (Cirad), chi nhánh tại Việt Nam. Theo ông, đâu là những tác động của tình trạng biến đổi khí hậu đối với ngành trồng cây cà phê của Việt Nam ? TS. Clément Rigal : Các tác động chính của biến đổi khí hậu đối với ngành trồng cây cà phê ở Việt Nam là vào mùa khô, thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau. Đây là giai đoạn trời rất ít mưa. Mùa khô sẽ ngày càng dài hơn, thất thường hơn, có thể khắc nghiệt hơn và thật là đáng tiếc, mùa khô vừa qua là một ví dụ điển hình, đặc biệt khó vượt qua, phần lớn không có đủ nước để tưới cho cây cà phê. Như vậy là thiệt hại đối với các trang trại trồng cà phê là rất lớn. Trời rất nóng, rất khô và mùa khô năm nay đã kéo dài hơn bình thường khoảng một tháng và đã có những thiệt hại đáng kể. Những mùa khô tới đây có thể sẽ đến ngày càng thường xuyên hơn, đó là vấn đề chính, nguy cơ chính liên quan đến biến đổi khí hậu đối với ngành trồng cây cà phê. Năm ngoái thì bình thường. Không phải năm nào cũng bị khô hạn như vậy. Trái lại, năm nay tác động đối với vụ thu hoạch sẽ có thể trông thấy rõ. Thêm vào đó, cũng xin nhắc lại là khí hậu khô hanh càng khiến rệp sáp trên cây cà phê phát triển mạnh, khiến thiệt hại càng thêm nặng nề. RFI Tiếng Việt : Nhưng biến đổi khí hậu cũng có thể mang lại những cơ hội cho ngành trồng cà phê tại Việt Nam ? TS. Clément Rigal : Thực ra là không thể dễ dàng nói là biến đổi khí hậu mang lại cơ hội. Tuy nhiên, điều chúng tôi thấy hiện nay trong lĩnh vực canh tác cây cà phê ở Việt Nam là ngày càng có nhiều nông dân đa dạng hóa các loại cây trồng trên đất cà phê, trong khi trước đây họ chỉ độc canh cây cà phê. Và ngày càng nhiều người trồng thêm các cây khác, đặc biệt là cây ăn trái trên diện tích đất trồng cà phê. Họ đa dạng hóa các loại cây trồng và ngày càng canh tác theo hướng nông lâm kết hợp. Và điều này có tác động rất tích cực đến khả năng chống đỡ, phục hồi của cây cà phê. Những cây cà phê mọc dưới tán cây cần ít nước hơn, được hưởng lợi do vi khí hậu thuận lợi hơn và được hưởng lợi từ vùng đệm khí hậu có khả năng chống đỡ tốt hơn, được bảo vệ tốt hơn trước các tác động dữ dội của tình trạng biến đổi khí hậu. Như vậy là sự đa dạng hóa cây trồng trên diện tích đất trồng cà phê có thể giúp giảm bớt các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, đồng thời mang lại thêm thu nhập cho nông dân. Và tại sao chúng ta lại không thử hình dung thêm thế này nhé : nếu như người nông dân tiếp tục thúc đẩy sự đa dạng hóa này, thúc đẩy các mô hình nông lâm kết hợp này, cũng có thể là họ sẽ sản xuất ra ít cà phê hơn một chút, nhưng chất lượng cà phê lại tăng lên. Nông dân có thể sẽ có những hệ thống canh tác cà phê bền vững hơn một chút, ít cần thuốc thực vật hơn. Đây là bước đầu tiên trong quá trình chuyển đổi sinh thái nông nghiệp. Nó không nhất thiết liên quan trực tiếp đến chống biến đổi khí hậu, mà về cơ bản trồng thêm cây ăn trái là một cơ hội kinh tế. Thế nhưng, sự chuyển đổi này cũng có tác động tích cực nhằm hạn chế tác hại của tình trạng biến đổi khí hậu đối với ngành trồng cây cà phê. RFI Tiếng Việt : Ngành trồng cây cà phê của Việt Nam cần thay đổi thế nào để đối phó với mối đe dọa từ biến đổi khí hậu ? TS. Clément Rigal : Câu trả lời cho câu hỏi này gồm hai phần. Trước tiên là làm thế nào để hạn chế tác động của biến đổi khí hậu. Về điều này, tôi nghĩ rằng đa dạng hóa hệ thống canh tác bằng cách nông lâm kết hợp sẽ là giải pháp đầu tiên. Nông dân cũng sử dụng rất nhiều nước để tưới cây. Nhưng phải có nước thì họ mới chống chọi được. Còn đối với những đợt hạn hán nghiêm trọng thì như vậy là chưa đủ. Nông lâm kết hợp trong trường hợp này là cần thiết. Như vậy, hướng đi thứ nhất chính là hạn chế tác động của biến đổi khí hậu. Còn đường thứ hai cũng vẫn là phải hạn chế tác động của việc trồng cà phê đối với khí hậu, bởi vì trồng cây cà phê cũng phát thải rất nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính, nhất là do ở Việt Nam, giới trồng cà phê sử dụng rất nhiều phân bón, mà phân bón thì có tác động rất mạnh, gây nhiều khí nhà kính, đặc biệt là phân bón tổng hợp. Và ngành trồng cây cà phê phải thực sự nỗ lực để hạn chế sử dụng phân bón tổng hợp, có thế thì mới có thể giảm phát thải carbon trong sản xuất cà phê ở Việt Nam. RFI Tiếng Việt : Theo ông, trong những năm gần đây, chính phủ Việt Nam và ngành cà phê đã có những nỗ lực để hạn chế tác hại đối với khí hậu và để thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu ? TS. Clément Rigal : Vâng, có những sự nỗ lực từ phía chính phủ, các doanh nghiệp, các ngành, đặc biệt là về khía cạnh nông lâm kết hợp. Có những chương trình của chính phủ Việt Nam nhằm khuyến khích đưa các loại cây trồng vào rẫy cà phê. Trái lại, vẫn có những khoản trợ cấp về phân bón, trong khi dùng phân bón thì gây phát thải khí nhà kính. Thế nên, theo tôi thì có lẽ cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa. Người tiêu dùng ngày càng có ý thức về chống biến đổi khí hậu, ngày càng nhận thức rõ hơn về các vấn đề, nên đòi hỏi khu vực tư nhân phải có các nỗ lực. Chúng tôi thấy có nhiều sáng kiến, ý tưởng đang manh nha, nhưng có lẽ đó mới chỉ là những sáng kiến ở quy mô quá nhỏ, hoặc có lẽ chưa đủ tham vọng. Cần phải tiến xa hơn để thực sự mang lại thay đổi. Khó khăn là ở chỗ ngành trồng cà phê ở Việt Nam có sản lượng rất cao. Việt Nam là nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 và là nước sản xuất cà phê Robusta đứng đầu thế giới. Xem xét lại mô hình trồng cà phê ở Việt Nam tức là phải mạo hiểm, có thể là sản xuất ít cà phê hơn một chút không hẳn là có lợi cho toàn bộ ngành trồng cà phê. Vì vậy, phải làm sao để cân bằng mọi thứ, để các sáng kiến giảm tác động đối với biến đổi khí hậu có thể dung hòa với lợi ích kinh tế. RFI Tiếng Việt : Như ông vừa nói, Việt Nam đứng thứ hai thế giới về sản xuất cà phê và đứng đầu thế giới về cà phê Robusta, nhưng cà phê Việt Nam lại không được đánh giá cao. Theo ông thì đó là do chất lượng, do hương vị cà phê hay là do ngành trồng cà phê của Việt Nam sử dụng quá nhiều phân bón ? TS. Clément Rigal : Đúng là cà phê Việt Nam bị mang tiếng xấu, thậm chí không có danh tiếng gì cả. Khi tôi nói chuyện với những người xung quanh tôi ở châu Âu, hầu hết mọi người thậm chí không biết rằng Việt Nam sản xuất cà phê. Họ rất ngạc nhiên khi biết là chúng tôi đang nghiên cứu về cà phê ở Việt Nam. Việt Nam dù là nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới, nhưng sản phẩm lại không được tiếng tốt và cà phê Robusta nói chung thì có tiếng là kém hơn nhiều so với cà phê Arabica. Và đúng là hầu hết cà phê sản xuất tại Việt Nam là cà phê Robusta và không được xem là cà phê có chất lượng. Hầu hết được sử dụng để chế biến cà phê hòa tan. Nhưng thực sự thì cũng có tiềm năng cải thiện chất lượng. Bản thân tôi, ban đầu chính tôi cũng ngạc nhiên. Khi đến Việt Nam, tôi thực sự không tin là như vậy. Nhưng tôi ngày càng được nếm thử những loại cà phê thực sự rất ngon, những loại cà phê Robusta rất là ngon. Đây là một lĩnh vực mới trỗi dậy, ngày càng có nhiều cuộc thi cà phê ở các địa phương, với những loại cà phê đặc biệt ngon. Về điểm này, nếu muốn sản xuất, ngành trồng cà phê có thể tái tổ chức. Nếu cà phê được sản xuất đại trà, nhưng không mang về nhiều giá trị và không được trả giá cao thì nông dân sẽ không quan tâm đến việc sản xuất cà phê ngon. Nhưng quả đúng là đang có một thị trường mới trỗi dậy về cà phê ngon. RFI Tiếng Việt : Xin nhắc lại, Clément Rigal, ông là nhà nông học, chuyên gia về cà phê và nhà nghiên cứu nông lâm kết hợp của CIRAD, Trung tâm hợp tác quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp phục vụ phát triển của Pháp. CIRAD có các dự án nào để hỗ trợ ngành cà phê của Việt Nam ? TS. Clément Rigal : Vâng, CIRAD đang thực hiện một số dự án tại Việt Nam nhằm hỗ trợ phát triển ngành trồng cà phê, giúp ngành trồng cà phê phát triển bền vững. Chúng tôi có những dự án về cà phê Tobusta. Có một dự án tên là V-SCOPE, được tài trợ thông qua sự hợp tác của Úc, và Boléro, được Liên Hiệp Châu Âu tài trợ. 2 dự án này được quan tâm nhằm đa dạng hóa hệ thống canh tác cà phê, để triển khai phương thức nông lâm kết hợp, và quan tâm đến quản lý nguồn tài nguyên nước để có hệ thống tưới tiêu tốt hơn, để cây cà phê có bộ rễ có khả năng chống chịu tốt hơn với thời tiết hạn hán. Thông qua các dự án này, chúng tôi phân tích vòng đời của cây cà phê để hiểu tác động của ngành này với môi trường và hiểu cách làm thế nào để giảm những tác động đó, phần nhiều là giảm sử dụng phân bón. Cách nay không lâu, chúng tôi có dự án Ecofi do khu vực tư nhân tài trợ, nhằm mục đích giảm lượng phân bón, thuốc trừ sâu trong canh tác cây cà phê. Và cũng có những dự án tập trung vào lĩnh vực trồng cà phê Arabica, vốn chỉ là một phần nhỏ so với Robusta, vốn chiếm đến hơn 95% sản lượng. Cà phê Arabica được trồng ở miền bắc Việt Nam và cao nguyên miền trung. Chúng tôi có các dự án với sự tài trợ, đặc biệt là của Liên Âu và Cơ quan Phát triển của Pháp AFD, nhằm phát triển nông lâm kết hợp trong ngành cà phê Arabica, thông qua việc đưa vào các giống cà phê Arabica thích ứng tốt hơn với các hệ thống nông lâm kết hợp, là những hệ thống mang tính hữu cơ nhiều hơn, đa dạng hơn, và có bóng râm. Chúng tôi đang thử nghiệm những giống Arabica mới ở miền bắc Việt Nam. Tất cả các dự án này đều góp phần phát triển ngành trồng cà phê ở Việt Nam. RFI Tiếng Việt : Tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất cà phê đã được nói đến nhiều. Vậy ngược lại, liệu ngành trồng trọt, sản xuất cà phê có để lại những hệ quả xấu đến môi trường, khí hậu hay không ? TS. Clément Rigal : Sản xuất cà phê tác động đến môi trường, và đặc biệt hơn là khí hậu. Cách nay vài tháng, chúng tôi đã cùng các đồng nghiệp xem xét các tài liệu khoa học. Về mức độ, 1kg cà phê được tiêu thụ sẽ thải ra lượng khí nhà kính tương đương 5kg, chủ yếu do sử dụng phân bón, đặc biệt là phân đạm. Việt Nam là nước tiêu thụ rất nhiều các loại phân bón này. Có những quốc gia khác sử dụng ít hơn nhiều, tại Ouganda, nông dân không nhất thiết dùng đến những loại phân bón này khi trồng cà phê Robusta. Nhưng năng suất của họ cũng thấp hơn. Thế nên, ở đây điều quan trọng là phải tìm ra sự cân bằng hợp lý giữa sản lượng cho phép người nông dân kiếm sống, đồng thời hạn chế tác động đến môi trường. Tác động thứ 2 là một tác động do lịch sử trước kia để lại : Thật đáng tiếc là cà phê thậm chí đã góp phần rất lớn vào nạn phá rừng. Ngày nay, ở Việt Nam điều này ít xảy ra hơn, nhưng trước đây thì rất nhiều diện tích rừng đã bị phá đi để trồng cà phê. Điều này góp phần gây ra thiệt hại về môi trường và làm biến đổi khí hậu. Điểm thứ 3 về biến đổi khí hậu ở Việt Nam thì cần nói đến tác động từ việc sản xuất phân hữu cơ (compost). Khi nông dân thu hoạch cà phê, chỉ có hạt cà phê là được sử dụng để chế biến thức uống. Phần cùi quả cà phê được sử dụng để làm phân hữu cơ compost rồi đưa ra bón cho đất. Loại phân compost này thường được làm theo phương pháp kỵ khí, tức là không có oxygen, góp phần tạo ra khí thải methane, ước tính chiếm tới 20% lượng khí nhà kính mà ngành cà phê thải ra. Ngoài ra, còn có các tác động khác đối với môi trường liên quan đến việc sử dụng, đặc biệt là thuốc trừ sâu diệt cỏ, nước, vì cây cà phê ở Việt Nam cần được tưới nhiều nước, nên nông dân phải khai thác mạch nước ngầm. Trái lại, ngành trồng cây cà phê cũng có nhiều cơ hội phát triển nhờ cách canh tác ít gây hại cho môi trường, nhất là nếu được thử nghiệm trong điều kiện thích hợp. Tôi xin nói trở lại về lĩnh vực nông lâm kết hợp, việc đưa các loại cây trồng vào rẫy cà phê có thể làm giảm mức tiêu thụ một số loại phân bón, bởi vì bản thân cây sẽ cung cấp các loại phân bón tự nhiên, đồng thời có thể giúp giảm tiêu dùng nước vì các cây trồng đó có thể cung cấp bóng mát, từ đó làm giảm nhu cầu về nước và sự bốc, thoát hơi nước của cây cà phê. Các cây đó cũng có thể hấp thụ carbon, qua đó hạn chế tác động gây biến đổi khí hậu của ngành trồng cà phê. Có một số phương pháp canh tác có thể khiến ngành trồng cà phê phát triển bền vững hơn nhiều, khiến cây cà phê có tiềm năng trở thành loại cây trồng của thế kỷ 21, chỉ gây ít tác động đối với môi trường, khí hậu. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Clément Rigal , Trung tâm Hợp tác Quốc tế về Nghiên cứu Nông nghiệp Phục vụ Phát triển, đã tham gia chương trình !…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Vụ Charlie Hebdo : Phải chăng kiểm duyệt và tự kiểm duyệt thể hiện “văn hóa tôn trọng lẫn nhau” 9:13
Vụ tấn công khủng bố tại tòa soạn báo trào phúng Charlie Hebdo cách nay 10 năm đã khiến cả thế giới bàng hoàng, thúc đẩy các cuộc biểu tình lớn ủng hộ tự do ngôn luận trên toàn thế giới. Vụ tấn công cũng đặt ra câu hỏi về giới hạn của tự do ngôn luận, đặc biệt tại những nước mà kiểm duyệt báo chí là vấn đề thường nhật, như ở Việt Nam, Trung Quốc hay một số nước Đông Nam Á khác. Nhìn từ khu vực Đông Nam Á, IFEX (International Freedom of Expression Exchange - một mạng lưới toàn cầu gồm các tổ chức cam kết bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do ngôn luận), trong một bài đăng, đưa ra bình luận về góc nhìn của vụ tấn công vào tạp chí Charlie Hebdo tại khu vực này. Bài đăng nhấn mạnh nơi đây “KHÔNG khoan dung” đối với các quan điểm khác biệt về chính trị, dù không bạo lực như vụ tấn công Charlie Hebdo, nhưng được hình sự hóa. Nhà nghiên cứu Prashanth Parameswaran, thuộc Chương trình châu Á tại Trung tâm Wilson, trong bài đăng trên The Diplomat, thì chỉ trích “tính giả tạo” của một số nước Đông Nam Á. Thủ tướng Malaysia Najib Razak đã từng lên mạng Twitter (tên gọi cũ của X) tuyên bố đất nước đoàn kết với người dân Pháp, còn bộ Ngoại Giao Indonesia thì tuyên bố ủng hộ nỗ lực của Pháp nhằm “đưa những kẻ ác ra trước công lý ”. Tại đất nước đa số Hồi giáo Indonesia, một người đàn ông đã bị bỏ tù vì tự tuyên bố là vô thần. Láng giềng Malaysia thì đã đưa ra luật chống kích động, để chống lại các chính trị gia đối lập các luật sư, nhà báo…. Hai nước này vẫn tiếp tục đàn áp các biên tập viên, họa sĩ biếm họa và những công dân khác trong nước vì thực hiện quyền tự do ngôn luận giống như Charlie Hebdo được hưởng. Ví dụ, biên tập viên của tờ The Jakarta Post, Meidyatama Suryodiningrat và họa sĩ truyện tranh gây tranh cãi người Malaysia Zunar - đều đang bị quản thúc tại gia vì những bức biếm họa bị coi là “xúc phạm đến sự nhạy cảm của công chúng”. Thái Lan cũng đã áp dụng lệnh cấm chỉ trích chính quyền quân sự và chế độ quân chủ trên các phương tiện truyền thông. Những nhà bất đồng chính kiến thường xuyên bị bỏ tù, buộc phải lưu vong, và thậm chí bị bịt miệng ngay cả sau khi họ đã rời khỏi nước. Tổ chức IFEX cho rằng, ở các quốc gia này, bao gồm cả Singapore, kiểm duyệt các phương tiện truyền thông và tự kiểm duyệt nhằm phục vụ cho lợi ích Nhà nước và quyền lực chính trị. Đọc thêm Đông Nam Á : Lên án vòng vo vụ tấn công báo Charlie Hebdo Riêng về Việt Nam, chỉ trích Nhà nước là phạm tội hình sự và kiểm duyệt báo chí là vấn đề thường nhật. Hà Nội được biết đến với nhiều cuộc đàn áp những nhà bất đồng chính kiến và bỏ tù những blogger chỉ trích tham nhũng trong chế độ hiện hành. Liên quan đến vụ tấn công vào tòa soạn báo Charlie Hebdo cách nay 10 năm, ông X một cựu nhà báo, từng cộng tác cho Tuổi Trẻ Cười xin ẩn danh, đưa ra nhận định với RFI Tiếng Việt : “Từ đêm 11/1 tới lúc 1 giờ 5 phút ngày 12/1/2015, tôi theo dõi khá sát cuộc tuần hành lịch sử ở Pháp, với sự tham gia của gần một triệu rưỡi người tại Paris và nhiều tỉnh, thành phố khác (bày tỏ ủng hộ Charlie). Cùng lúc, điểm lại làng báo Việt Nam thì thấy chỉ có mỗi báo điện tử Pháp Luật TP.HCM Online tường thuật về cuộc tuần hành này, còn nhiều báo lớn, như Tuổi Trẻ Online, sau khi tường thuật về vụ bắt con tin ở Paris thì đêm đó không có một dòng nào về sự kiện lịch sử này. Trên vị trí vedette của các tờ báo điện tử khác, chỉ thấy giựt tin... thí sinh Tài năng Việt uống nhầm a-xít,…, hệt như mấy báo lá cải. Chi tiết này khiến tôi đặt ra vấn đề: Liệu có phải nhiều tờ báo điện từ, nội bộ nhiều báo đã “tự kiểm duyệt”, hoặc đã được nhắc nhở không nói nhiều thêm về vụ “ủng hộ Charlie Hedo” chăng ? Làng biếm họa Việt Nam, khoảng trên dưới chục người hành nghề chuyên nghiệp, cũng thường phải đối mặt với “tự kiểm duyệt” và “kiểm duyệt”. Theo ông X, nếu xét các tiêu chí một cách định lượng, thì Việt nam “chưa hề có văn hóa truyện tranh” , dù có rất nhiều cơn sốt về manga, và cũng “chưa có văn hóa về tranh biếm họa”. Có thể tóm gọn lại, Việt Nam thì có 3 góc độ: góc độ công chúng, tức là người thưởng ngoạn văn hóa, góc độ chính quyền và góc độ giới sáng tác – các họa sĩ biếm. "Hộp đen" kiểm duyệt Nếu xét vào “đầu ra” , thì có thể thấy rằng chỉ trích các nhà lãnh đạo hay những nhân vật quyền lực, và các vấn đề chính trị “nhạy cảm” , được cho là những “điều cấm kị” . Ông X nêu ra ví dụ về cố họa sĩ Nguyễn Hải Chí với bút danh Chóe, từng là cây vẽ nổi tiếng với cây bút phóng khoáng, táo bạo, cộng tác cho nhiều báo trước và sau năm 1975. Chóe từng bị chính quyền Sài Gòn bỏ tù vị nội dung tranh nhạy cảm. Sau năm 1975, ông cùng nhiều giới văn nghệ sĩ bị xếp vào hàng “ngũ phản động” và phải đi cải tạo. Nhưng không lâu sau đó, đã được một số báo mời cộng tác trở lại. Tiêu biểu là loạttranh biếm hoạ liên hoàn – comic strip của Chóe trên báo Lao Động. Loạt tranh này đình bản khi họa sĩ Chóe ngừng vẽ. Dưới đây là một ví dụ về loạt tranh Liên Tu Bất Tận, trong đó họa sĩ Chóe không ngần ngại đề cập đến "Anh Sáu" , có thể có ngụ ý chỉ Võ Văn Kiệt, nguyên thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với bí danh "Sáu Dân". Hay một trường hợp khác, về họa sĩ với bút danh NOP cũng cố tạo ra một loạt tranh liên hoàn nhưng có phần "kiềm chế" hơn, với tựa Ba Điều, Bốn Chuyện, là những màn đối thọai giữa anh Ba Điều – anh xe ôm, và chị Bốn – tiểu thương. Loạt tranh liên hoàn của NOP, được đăng trên báo Làng Cười, khác với Chóe ở chỗ là "không hề xuất hiện các ông quan chức mà toàn là những chuyện bần cùng trong xã hội, luôn kết thúc bằng 2 cách khác nhau". Thứ nhất là cách chị Tư, cầm nón lá che mặt, để thể hiện sự mắc cỡ. Hoặc là anh Ba, giơ 2 tay lên trời theo kiểu đầu hàng. "Những chủ đề của NOP khác với chủ đề Liên tu bất tận của Chóe, đó là chỉ tập trung vào các vấn đề của xã hội chứ không động chạm đến các vấn đề quan liêu gì. Bởi vì trước đó cả chục năm, hoạ sĩ NOP đã vẻ bức tranh tự nhắc mình, trong đó “thể hiện một hoạ sĩ biếm ngồi bên bàn vẽ, trước mặt chàng ta là các tranh chân dung ông nầy bà nọ, kèm theo lời chú giải rằng : Không được vẽ nhân vật giống anh Hai, bác Ba. cô Tư, anh Bảy, chú Sáu, ...” Theo ông X, đó là một sự “lựa chọn sáng tác”, một hình thức tự kiểm duyệt. Theo ông X, đó là một sự “lựa chọn sáng tác” , một hình thức tự kiểm duyệt. Loạt tranh Ba Điều Bốn Chuyện, đã bị ngừng đăng do báo Làng Cười "tự đình bản vì chỉ số phát hành giảm dần". Ông X nói thêm : " Là một người nghiên cứu lâu năm về biếm họa thì tôi thấy, việc chỉ đạo và kiểm duyệt nói chung, có thể coi như một hộp đen, thì người quan sát sẽ phân tích hộp đen ở đầu vào và đầu ra(...) Tôi theo dõi, thì thấy là tranh biếm về đường lưỡi bò do Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông, xuất hiện rất nhiều tranh xuất sắc của Nhật Bản, Philippines, Đài loan, nhưng hoàn toàn không có 1 tranh nào của Việt Nam về đường lưỡi bò và về Biển Đông. Thì chúng ta hiểu, cái đó, giống như một cái tabou (kiêng cấm), vô hình hoặc hữu hình thì chúng ta không biết. Cái thứ ba, có thể thấy là rất quan trọng, các báo lần lượt bỏ mục tranh biếm họa trước từng có ở trang hai hoặc trang nào đó khác. Tờ báo trào phúng làng cười cũng bị tự đình bản, nên hiện nay, chỉ có duy nhất tờ báo Tuổi Trẻ cười, giới họa sĩ biếm họa có thể kiếm sống được bằng vẽ tranh không ? Họa sĩ biếm vẽ tranh biếm họa như một nghề chính rất là hiếm. Họ có thể vẽ tranh đăng trên mạng xã hội Facebook, cũng có nhưng không có giá trị gì. Nếu tranh của họ đụng chạm vào vấn đề gì thì cũng bị Facebook kiểm duyệt… Hơn nữa, vấn đề không chỉ là có ý thức tự kiểm duyệt, hay không còn đất phải kiếm kế sinh nhai, mà là tâm thức, người ta có rất nhiều vấn đề phải lo trong một xã hội quá khó khăn. Cho nên, sáng tác vì đam mê, nếu như đam mê thể hiện nó đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm, thì việc sáng tác tranh biếm có thể coi như một hành vi thuộc loại… xa xỉ." Quay trở lại vụ Charlie Hebdo, cuộc tấn công vào giới làm báo, sáng tác tranh biếm được nhìn nhận bởi giới họa sĩ biếm họa Việt Nam như thế nào ? Tính văn hóa trong kiểm duyệt Từng là một trong những nhà nghiên cứu biếm hoạ quốc tế và Việt Nam lâu năm, ông X nhấn mạnh rằng thảm kịch gây chấn động, khiến nhiều người bàng hoàng, cũng như là thế giới, “ nhưng sự bàng hoàng đó, không đồng nghĩa với việc ủng hộ phong cách châm biếm của Charlie Hebdo ”. Ông cho rằng “có thể cảm thông với tinh thần đoàn kết của phong trào Tôi là Charlie – Je suis Charlie, khẳng định giá trị của tự do ngôn luận và phản đối mọi hình thức bạo lực”. Tuy nhiên, đối với giới họa sĩ biếm họa Việt Nam nói chung, “ họ thường không thể hiện tính chất quá đà của trào phúng theo phong cách Humour Noir của Charlie Hebdo , “dựa trên sự nhạo báng những vấn đề mang tính cấm kỵ, thì hoàn toàn không hợp với tính cách và văn hóa Việt Nam, nên không hợp với phong cách của văn hóa Việt Nam.” Một họa sĩ biếm họa khác ở Việt Nam, cũng khẳng định với RFI Tiếng Việt là “người dân luôn tôn trọng tôn giáo của người khác và hầu như không đem tôn giáo ra để châm biếm như các nước khác, đó là văn hóa vùng miền khác nhau”. Đọc thêm Nhiều người Iran biểu tình phản đối Pháp về vụ báo Charlie Hebdo châm biếm chế độ Hồi Giáo Nhắc đến tính kiểm duyệt đến từ văn hóa, một nhà báo từ Đài Loan cũng có cùng quan điểm này. Trả lời RFI Tiếng Việt, nhân dịp tưởng niệm 10 năm Charlie Hedbo, cô Chen cho biết ở châu Á và Đài Loan, người ta có văn hóa hài hước riêng. Cô nói : “Chúng tôi có thể châm biếm hài hước về nhiều vấn đề, nhưng chúng tôi không muốn xúc phạm người khác. Tại Đài Loan, chúng tôi có nhiều tự do trong báo chí, dĩ nhiên, chúng tôi, cũng muốn gây tiếng cười từ những vấn đề xã hội, chính trị, dưới nhiều hình thức nghệ thuật sáng tạo khác nhau, nhưng chúng tôi muốn đối xử với mọi người một cách thân thiện, và không khiến họ nổi giận… (Văn hóa này bắt nguồn từ đâu ?) Tôi cho rằng, từ khi còn nhỏ chúng tôi không được khuyến khích đưa ra những ý kiến mang tính chỉ trích. Và điều này không giống như ở các nước phương Tây, họ được học, được đào tạo từ triết học để có có được ngày càng nhiều kiến thức, xây dựng cách cách suy nghĩ phê phán về tư duy phản biện”. Tự do có giới hạn... Nhìn từ Trung Quốc, vụ khủng bố Charlie Hebdo đã cho thấy “sự nguy hiểm của một nền báo chí không kiểm duyệt, quá tự do”. Tân Hoa Xã đã từng đăng bài bình luận về giới hạn của quyền tự do ngôn luận : “Nếu mọi người tự đặt giới hạn cho bản thân khi thể hiện quyền tự do và tôn trọng người khác,.., thì sẽ có ít thảm kịch hơn.” Còn tại Nga, nơi mà Nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện truyền thông lớn, phát ngôn viên điện Kremlin Dimitri Peskov từng khẳng định rằng một tạp chí châm biếm như Charlie Hebdo sẽ không bao giờ được xuất bản tại Nga. Ông Peskov giải thích : “Bởi vì Nga có cộng đồng Hồi Giáo sinh sống. Thiên chúa Giáo là tôn giáo chính, đất nước Nga đa sắc tộc và tôn giáo, và tất cả các giáo phái tôn trọng lẫn nhau”, theo trích dẫn từ hãng thông tấn TASS của Nga. Như vậy, kiểm duyệt đã được đánh đồng với “sự tôn trọng lẫn nhau”. Tại một trong những nền dân chủ lớn nhất châu Á, Nhật Bản, tờ Japanese Time trích dẫn nhận định của một phóng viên, cho rằng “mọi thứ đều được chấp nhận ở Nhật, miễn là không vi phạm luật pháp và không được thấu hiểu… Nếu cần phải đưa ra kiểm soát pháp lý để hạn chế nội dung thì tốt hơn là chủ động và quyết định các quy tắc cần tuân theo trước và Hiệp hội Biên tập và Xuất bản Báo Nhật Bản đã ban hành các quy định này trong tuyên bố văn bản về đạo đức nghề nghiệp của họ.”…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
Cách nay 10 năm, ngày 07/01/2015, nước Pháp đã trải qua một cú sốc kinh hoàng trước vụ thảm sát tại tòa sạn báo châm biếm Charlie Hebdo do anh em nhà Kouachi thực hiện, khiến cả thế giới bàng hoàng. Liệu 10 năm sau, tờ báo biếm họa trào phúng trở thành tượng đài tự do ngôn luận ở Pháp, bị khủng bố tấn công, có còn tiếp tục tạo ra tiếng cười đối với mọi chủ đề mà không bị đe dọa ? Thảm kịch bắt đầu vào sáng ngày 07/01/2015, hai anh em Said Kouachi và Chérif Kouachi, được cho là có liên hệ với tổ chức khủng bố al-Qaeda, đã mang theo súng trường tấn công vào văn phòng tòa soạn của Charlie Hebdo trong giờ họp. Vụ tấn công diễn ra trong 10 phút, đã tước đi sinh mạng của 12 người, 8 trong số là các thành viên của toà soạn, các hoạ sĩ vẽ tranh biếm họa Cabu, Charb (tổng biên tập), Honoré, Tignous và Wolinski, cùng nhà tâm lý học Elsa Cayat và nhà kinh tế học Bernard Maris, người hiệu đính Mustapha Ourrad. 11 người khác bị thương, trong đó có 4 người bị thương nặng. Ngay trong tối cùng ngày, hàng nghìn người Pháp đã tập trung, đứng dưới khẩu hiệu “Je suis Charlie – Tôi là Charlie”, trở thành biểu tượng cho tự do ngôn luận và sự đoàn kết. Đến ngày 11/1, khoảng 4 triệu người đã xuống đường để tưởng nhớ tổng cộng 17 người bị sát hại vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 1/2015, là các nhà báo, cảnh sát, những người Pháp theo đạo Do Thái, thiệt mạng, trong vụ tấn công vào một siêu thị ở Porte de Vincennes, gần ngoại ô Paris. Đọc thêm Phương Tây bảo vệ quyền châm biếm của Charlie Hebdo, các nước Hồi giáo ôn hòa Châu Á lo ngại Vụ tấn công đánh dấu khởi đầu của mỗi chuỗi các vụ khủng bố liên hoàn sau đó, vào ngày 13/11/2015 tại Paris, ngày 14/7 năm 2016 tại Nice… Vào năm 2020, khi Charlie Hedbo đăng lại những bức tranh biếm họa về Mohammed nhân các phiên tòa xét xử vụ tấn công, một bộ phận thế giới Hồi giáo một lần nữa lại phẫn nộ chống lại Pháp. Vào tháng 09/2020, một người Pakistan đã thực hiện một vụ tấn công trước văn phòng cũ của Charlie. Một tháng sau đó, một kẻ khủng bố gốc Chechenia đã ám sát Samuel Paty một cách tàn bạo, sau khi giáo viên lịch sử này cho xem những bức tranh biếm họa trong lớp. Theo tuần san Nouvel Obs , “bóng tối của ngày 07/01/2015 - những mối đe dọa tiềm ẩn trong các hành động khủng bố, cho đến nay vẫn còn đó ”. Tại Pháp, các hồ sơ điều tra về khủng bố thánh chiến chiếm 87% tại Văn phòng Công tố Chống Khủng bố Quốc gia. Nỗi sợ hãi vẫn còn đó 10 năm sau thảm kịch, các nhà báo và hoạ sĩ tranh biếm họa của Charlie Hebdo vẫn tiếp tục phải sống chung với những đe dọa khi hành nghề, được cảnh sát túc trực bảo vệ, nhưng cuộc đấu tranh bằng cây cọ, ngòi bút vẫn tiếp tục. Kể từ sau vụ tấn công tháng 01/2015, địa chỉ mới của tòa soạn hoàn toàn được giữ kín, người ngoài khó có thể tiếp cận, ngay cả với những đồng nghiệp trong giới nhà báo. Bởi Charlie vẫn luôn bị đe dọa. Thế nhưng, điều này không ngăn cản tờ báo châm biếm tổ chức một cuộc thi vẽ tranh biếm họa về Thượng Đế, mời họa sĩ từ khắp nơi trên thế giới tham gia. Trả lời RFI Pháp ngữ, ông Gerard Biard, tổng biên tập của tờ báo, đã nhận được một số bức tranh dự thi, và cho biết : “ Những bức tranh biếm họa thú vị nhất là những tác phẩm không cần lời, bởi vì như vậy cả thế giới có thể hiểu được mà không cần phải dịch thuật. Đó là loại tranh rất khó vẽ, và khó thành công, nhưng một khi đã làm được thì không gì có thể so sánh được”. Cuộc thi này được xem như là một “thước đo nhiệt độ” , để “trấn an về tình trạng sức khỏe của bức tranh biếm họa,” mười năm sau cuộc tấn công. Tổng biên tập báo Charlie Hebdo cho biết rất mong đợi, xem là những bức tranh biếm họa độc đáo nhất đến từ quốc gia nào, nền văn hóa nào. Bởi dù có ở đâu trên quả địa cầu này, “ai cũng có thể cười về Thượng Đế, và không có ai, ngay cả những người có đức tin, là chưa từng báng bổ cả” . Những bức tranh biếm họa độc đáo nhất từ cuộc thi sẽ được đăng trên số đặc biệt của Charlie Hebdo, vào thứ Ba, đúng ngày 7 tháng 1 năm 2025. Đọc thêm Pháp : Charlie Hebdo, hồi I của thảm kịch khủng bố Paris 10 năm sau vụ thảm kịch, cuộc chiến đấu vì tự do ngôn luận của các hoạ sĩ có gì thay đổi không ? Theo một nghiên cứu của Ifop năm 2020, 59% người Pháp tin rằng báo chí “có lý” khi xuất bản loại tranh biếm họa “nhân danh quyền tự do ngôn luận”, trong khi vào tháng 2 năm 2006 chỉ có một thiểu số người Pháp chia sẻ quan điểm này (38%). Thế nhưng, điều này không có nghĩa là khi vẽ về các chủ đề nhạy cảm, đặc biệt là tôn giáo, thì không có nguy cơ bị đe dọa. Những thay đổi có thể là sự ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ từ các mạng xã hội, khiến những lời chỉ trích có thể dễ dàng mang những hình thức bạo lực. Đối với một trong những sống sót sau thảm kịch, nữ họa sĩ với bí danh Coco, từng bị anh em nhà Koucachi bắt làm con tin tại trụ sở tòa soạn ngày 07/01, cũng như các đồng nghiệp khác, đều được cảnh sát giám sát bảo vệ trong lịch trình di chuyển hàng ngày. Hồi đầu năm 2024, cô đã phải đối mặt với nhiều lời lăng mạ, đe dọa đến tính mạng, sau khi báo Libération đăng tải một bức tranh cô vẽ hí họa về Ramadan (thời điểm nhịn ăn trong đạo Hồi) ở Gaza, dưới bom đạn của Israel, bị cô lập với thế giới. Bức vẽ có dòng tựa “Ramadan ở Gaza. Bắt đầu của tháng nhịn ăn ”, minh họa một người đàn ông gầy gò, đói kém, đang chạy đuổi theo vồ những con chuột thì bên cạnh, là một nhân vật khác trùm đầu, vẫy tay ngăn cản người đàn ông dừng lại : “Không được “ăn” trước khi mặt trời lặn”. Theo nữ họa sĩ, bức vẽ nhấn mạnh đến sự tuyệt vọng của người Palestine, tố cáo nạn đói ở Gaza và chế nhạo sự phi lý của tôn giáo. Thế nhưng, ngay lập tức, cô đã phải hứng chịu một làn sóng chỉ trích, đe dọa trên mạng xã hội, từ những người vô danh, với những bình luận như “Tôi chúc bà những điều tồi tệ nhất trong cuộc đời, đồ hèn hạ. Đáng lẽ họ phải xử lý bà vào ngày 7 tháng 1”, cho đến những lăng mạ từ các chính trị gia. “ Chúng tôi sẽ không căm thù bà, nhưng bà xứng đáng bị căm ghét” , như nhận xét của Sophia Chikirou, nghị sĩ thuộc đảng cực tả Nước Pháp Bất Khuất (LFI). Trong cuộc phỏng vấn với đài RTL cô cho biết, đã nhận được nhiều ủng hộ từ bạn bè, đồng nghiệp, hơn là những lời đe dọa. Cô cũng chưa từng nghĩ sẽ gác bút vẽ, bởi vì “ đó là một nhu cầu để báo tiếp tục tồn tại, và chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục vẽ tranh, không để những kẻ khủng bố được hả hê... Điều quan trọng là các nhà báo, họa sĩ hí họa có tự do, được sáng tác với tờ giấy và bút vẽ trước mặt. Tôi vẫn giữ quan điểm của mình và những đe dọa không khiến tôi run sợ”. Tự kiểm duyệt... để tồn tại Giám đốc tòa soạn Charlie Hebdo, với bút danh Riss cũng nhấn mạnh sự kiên định với nghề vẽ tranh hí họa và đường hướng biên tập của tờ báo, nhưng ông cũng thừa nhận trong chương trình C à vous của kênh truyền hình France 5 một hình thức tự kiểm duyệt từ 10 năm qua : “Chúng tôi không muốn để tác phẩm của mình khó hiểu, hay đề cập đến những vấn đề một cách mạnh bạo, vì như vậy người đọc sẽ dần xa lánh, họ sẽ lo sợ. Người ta cần được trấn an nếu như chúng tôi mạnh tay quá, thì độc giả sẽ quay lưng lại với chúng tôi…” Trong một cuộc phỏng vấn khác với báo Le Monde , Riss cũng nhấn mạnh rằng phong cách biếm họa của Charlie Hedbo là riêng lẻ và chưa bao giờ là mốt. Ngày nay, nhiều tờ báo quay lưng với tranh biếm họa vì nhận thức được sức ảnh hưởng của chúng, nhưng thực tế, họ lo sợ. Vì một bức vẽ có thể nhanh chóng khơi dậy những phản ứng không kiểm soát được. “Truyền thống vẽ tranh phản tôn giáo, trong đó “Charlie” là người thừa kế, được bắt nguồn vào thế kỷ 19, đặc biệt là từ những chỉ trích đối với các tôn giáo do Voltaire thể hiện. Theo tôi, ngày nay, tranh châm biếm chống tôn giáo “đang hấp hối” là do giới trí thức Pháp đã quay lưng lại với truyền thống này.” Đọc thêm Nhiều người Iran biểu tình phản đối Pháp về vụ báo Charlie Hebdo châm biếm chế độ Hồi Giáo Laurent Bihl, giáo sư tại đại học Paris I Panthéon Sorbonne, trả lời AFP, nhận định rằng : “Kể từ năm 2015, không gian tự do ngôn luận đối với các sản phẩm biếm hoạ không được mở rộng hơn mà thu hẹp lại”. New York Times thông báo rằng họ ngừng xuất bản các tranh châm biếm từ ngày 07/01/2019 (sau một bức tranh biếm họa gây tranh cãi vì bị cho là bài Do Thái). “Les Guignols de l'info” (chương trình trên Canal+) cũng đã biến mất vào tháng 6 /2018, ba năm sau Charlie, và không có ai thắc mắc về điều đó. Sự khéo léo trong nghề vẽ tranh biếm họa Nói đến nghề vẽ tranh báo hí họa, tại Pháp, theo họa sĩ với bí danh Fix, chỉ có khoảng vài chục người hành nghề này, và coi vẽ là nghề nghiệp chính, nhưng thường gặp nhiều khó khăn. Sau thảm kịch tại Charlie Hebdo có một “cơn sốt” đối với tranh biếm họa, nhưng đã hạ nhiệt không lâu sau đó. Nhiều tờ báo đã không còn hoặc ít sử dụng tranh biếm họa hơn. Trả lời RFI Tiếng Việt, ông Fix nhận định rằng “trước kia, mỗi tờ báo hay tạp chí, đều có một họa sĩ chuyên vẽ tranh biếm họa. Tôi thấy là có một xu hướng là nhiều tờ báo dần dần từ bỏ hình thức minh họa này, vì họ khó có thể kiểm soát được. Thông điệp mà bức tranh biếm họa truyền tải, thường gắn với hình ảnh của tờ báo, và khiến người đọc hiểu rằng nếu báo sử dụng tranh có lập trường như vậy thì cả tòa soạn đều có quan điểm tương tự, giống như một bài xã luận trong một tờ báo vậy… Nếu trước kia, chỉ với báo giấy, người đọc không hài lòng với một bức tranh nào đó, thì chỉ nói với bạn bè người thân. Nhưng ngày nay với mạng xã hội, tranh biếm họa thường dễ truyền tải nội dung và được loan truyền rộng rãi hơn, mọi người có thể phản ứng mạnh hơn, khiến các tờ báo khó thể kiểm soát được tác động của chúng.” Ông Fix từng làm trong lĩnh vực tư vấn tài chính, nhưng quyết định đổi nghề, theo đuổi với đam mê vẽ tranh biếm họa và cộng tác với nhiều báo hay tạp chí từ hơn 10 năm nay. Chọn chủ đề biếm họa trong thế giới công sở, hay về những người lao động nói chung, và không phải là những chủ đề chính trị hay nhạy cảm, ông cho biết ít khi phải đối mặt với những đe dọa, hay tự kiểm duyệt. Cho đến nay, ông cho rằng tiếng cười trào phúng có thể được chấp nhận đối với mọi chủ đề, nhưng không thể gây cười với tất cả mọi người, và tránh làm tổn thương người khác. Ông nói hành nghề này “cần phải rất khéo léo”. “ Khi vẽ tranh biếm hoạ, thì cũng phải tinh tế, xét đến cách mà người xem đón nhận bức tranh đó như thế nào. Câu hỏi đặt ra là “ai sẽ là người tiếp nhận chúng ?” Nếu dùng ngòi vẽ một cách bạo lực, nhắm vào một ai đó, một đối tượng nào đó…, thì tôi cho rằng người vẽ phải chịu trách nhiệm về hành động đó.” Theo họa sĩ Fix, Charlie Hebdo vốn là một tạp chí có khuynh hướng cực đoan, và họ khẳng định lập trường cực đoan và không cho rằng Charlie Hebdo đại diện cho nền tranh biếm họa của Pháp. Nhưng theo ông, thảm kịch đáng buồn cách nay 10 năm đối với tòa soạn này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải “tiếp tục vẽ tranh trào phúng”. Vụ tấn công khủng bố vào Charlie Hebdo đã tạo ra một làn sóng phẫn nộ, không chỉ tại Pháp, mà lan sang cả châu Âu và thế giới. Charlie Hebdo vốn là một tạp chí châm biếm, đăng tải tranh biếm họa trào phúng liên quan đến các chủ đề xã hội, tôn giáo, chính trị và các nhân vật công chúng, và cũng không ít lần gây ra tranh cãi, vấp phải chỉ trích vì những cây cọ được cho là quá đà. Cho đến nay, cuộc tranh luận về giới hạn của tự do ngôn luận vẫn tiếp diễn, đặc biệt liên quan đến các vấn đề nhạy cảm như tôn giáo.…
Xuất phát từ Thổ Nhĩ Kỳ, món bánh mì kẹp thịt nướng, còn thường được gọi là döner kebab đã trở nên phổ biến trên toàn cầu nhờ hương vị thơm ngon của thịt nướng phủ đầy sốt mịn đặc trưng. Tuy nhiên, theo trang thông tin Euronews, gần đây đã có một cuộc tranh luận khá sôi nổi giữa Đức và Thổ Nhĩ Kỳ: Món kebab ăn sao cho đúng điệu ? Trước khi trả lời câu hỏi này, nên chăng tìm hiểu về loại bánh mì döner kebab, mà nguồn gốc đến từ Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Pháp, một trong những quán kebab ngon nhất là nhà hàng Özlem, ở quận 10 Paris. Quán ăn gia đình này ra đời cách đây gần 4 thập niên chỉ mở cửa phục vụ vào bữa trưa. Theo RFI ban Pháp ngữ, chủ quán ăn hiện thời là anh Edip Bolatoglu, người Pháp gốc Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi tốt nghiệp trường dạy nấu ăn nổi tiếng Ferrandi, anh phát triển cơ sở kinh doanh và chủ trương bán món bánh mì döner kebab loại thủ công. Tại quán ăn Özlem, không hề có chuyện dùng nước sốt công nghiệp hay bánh mì pita vỏ cứng. Tất cả đều được chế biến tại chỗ, thịt nướng kebab chỉ được làm với thịt bê và ức gà tây, nhưng vẫn có giá phải chăng. Chủ quán ăn Özlem cho biết ý nghĩa của chữ döner kebab : Chữ kebab là tên gọi chung cho tất cả các món nướng trên than hồng hay bếp lửa. Món döner kebab mà nhiều người gọi nôm na là kebab bắt nguồn từ chữ dönerek chỉ có nghĩa đơn thuần là quay tròn, trong trường hợp này là món thịt nướng quay, và như vậy döner kebab tương đương với món thịt nướng shawarma, cũng có nghĩa là thịt quay trong tiếng Ả rập. Hầu hết các quán kebab tại Pháp, nhất là các quán chuyên bán thức ăn nhanh chủ yếu làm xiên thịt nướng với gà tây. Thế nhưng, theo anh Edip Bolatoglu, món döner kebab theo truyền thống Thổ Nhĩ Kỳ được làm với thịt cừu non, trên các thị trường châu Âu, thịt cừu non được thay thế bằng thịt bê, nổi tiếng là mềm và ngon hơn thịt gà tây. Nhưng quan trọng hơn nữa là cách dùng gia vị và thời gian ướp thịt, thịt càng ướp lâu, món döner kebab càng đậm đà hương vị : Món kebab nấu theo kiểu gia đình tôi chủ yếu bao gồm thịt bê, chúng tôi dùng thêm thịt gà tây để cho thịt nướng không có quá nhiều mỡ. Thịt được ướp với nhiều gia vị, cắt thành từng lát lớn nhưng mỏng khoảng 3mm, rồi xếp chồng tất cả lại với nhau thành một khối, đem cắm vào xiêng sắt, rồi nướng theo chiều dọc thẳng đứng. Cách nướng này giúp cho mỡ và nước thịt chảy xuống phía dưới, và khi cắt thịt chín, chiều thẳng dọc giúp cho ta cắt lớp ngoài vừa chín tới, thịt nướng vẫn thơm mềm và nóng hổi. Gia đình tôi đến từ làng Hatay, vùng Antiochia ở phía nam Thổ Nhĩ Kỳ. Người dân địa phương không ăn bánh mì, mà chủ yếu dùng một loại bánh dẹp bằng bột mì cán mỏng. Quán ăn gia đình tôi tiếp tục truyền thống này của các tỉnh miền nam Thổ Nhĩ Kỳ và chúng tôi tự làm lấy 100% loại bánh dẹp này, chứ không dùng các loại bánh pita tức là bánh mì tròn làm sẵn, sản xuất theo kiểu công nghiệp. Bột bánh chúng tôi tự nhồi lấy, còn thịt kebab thì chúng tôi phải ướp đúng theo công thức gia truyền, từ ít nhất 24 tiếng cho đến 48 tiếng. Quán ăn Özlem chẳng những không dùng bánh mì tròn pita mà còn không phục vụ món khoai tây chiên. Chủ yếu cũng vì việc ăn kebab kèm với khoai tây chiên là một sáng chế thêm sau này của cộng đồng người nhập cư ở Tây Âu, chứ ít có phổ biến ở Thổ Nhĩ Kỳ, Liban hay một số nước Ả Rập. Thay vào đó, chủ quán Özlem phục vụ cơm, bánh mì cán dẹp, xà lách trộn cà chua và rau tươi, một kiểu ăn gần giống hơn với văn hóa ẩm thực Thổ Nhĩ Kỳ. Dù ở đâu, quán kebab thường phải có máy quay đứng thẳng để nướng thịt gà xiên khối. Chừng nào có khách đặt mua, thì người bán hàng mới cắt thịt trên xiên thành nhiều lát mỏng, rồi đem thịt nhồi vào bánh, trộn thêm với một chút rau sà lách, hành tây, dưa leo, cà chua …. nhờ vậy ăn đỡ ngán. Nước sốt bỏ vào bánh mì cũng có nhiều loại, loại trắng có vị chua ngọt, loại màu đỏ có vị thơm của ớt tây (nếu đúng theo truyền thống biber salçasi của Thổ Nhĩ Kỳ), hoặc màu ớt xanh nhưng vẫn cay như tabasco của Mỹ, màu ớt đỏ mọng cay nồng không kém gì harissa của người Tunisia. Trả lời câu hỏi kebab ăn sao cho đúng điệu, thì người Thổ nhĩ Kỳ không dùng với khoai tây chiên, còn cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ ở Đức luôn dùng món thịt nướng với bánh mì dẹp. Theo trang thông tin Euronews, món döner kebab đôi khi bị gọi nhầm là bánh mì sandwich Hy Lạp, thực ra được ông Kadir Nurman. một người Thổ Nhĩ Kỳ sáng chế vào những năm 1970 tại Berlin. Chữ kebab bắt nguồn từ kepa, một cách nướng thịt bằng than củi khá đặc biệt của người Thổ Nhĩ Kỳ. Vào những năm 1830, một người đàn ông tên là Amid Oustaz đã nảy ra ý tưởng đặt cái cọc xiêng thịt theo chiều dọc bên đống lửa, chứ không còn theo chiều ngang như từng làm trước kia. Hơn một thế kỷ sau tại Berlin, ông Kadir Nurann lấy lại ý tưởng nướng thịt theo chiều dọc rồi kẹp với bánh mì hình tam giác, và như vậy, tạo ra món nên món döner kebab, thích nghi với nhu cầu của khách hàng Đức, mua món này để mang đi, hoặc ăn ngay trên đường phố. Do vậy, nhiều người cho rằng món thịt nướng đã có từ lâu ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng chính ông Kadir Nurman mới là người khai sinh món bánh mì kẹp thịt nướng quay ăn kèm với salad, cà chua, hành tây và nhiều loại nước sốt khác nhau. Sinh trưởng tại vùng Anatolia, ông định cư tại Đức vào những năm 1960. Sau đó, ông mở tiệm bánh mì kẹp thịt nướng quay đầu tiên ở Tây Berlin vào năm 1972. Và cũng từ đó cho ra đời khái niệm döner kebab như một thức ăn nhanh của cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ nhập cư tại Đức. Từ Berlin, món döner kebab sẽ lan rộng sang khắp châu Âu, rồi chinh phục toàn cầu. Nước Đức hiện có hơn 16.000 nhà hàng kebab và cơ sở chế biến các khối xiên thịt nướng của Đức, hiện cung cấp đến 80% thị trường châu Âu. Trong mắt người nước ngoài, món döner kebab trở nên tiêu biểu cho ẩm thực Thổ Nhĩ Kỳ và cũng vì thế mà gây ra bất đồng. Tranh cãi bắt đầu cách đây hai năm khi Thổ Nhĩ Kỳ nộp đơn lên Liên Hiệp Châu Âu để đăng ký món bánh mì kẹp thịt nướng döner kebab là đặc sản truyền thống của nước này, với nhãn hiệu cầu chứng TSG (Traditional Specialities Guaranteed). Mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ không phải là thành viên Liên Hiệp Châu Âu, nhưng một nước ở ngoài khối vẫn có quyền nộp đơn xin cầu chứng những món ăn truyền thống. Nếu được công nhận là đặc sản TSG, món döner kebab sẽ phải tuân thủ các tiêu chuẩn về mặt thành phần chế biến do phía Thổ Nhĩ Kỳ đề nghị. Tuy nhiên, vào giữa năm 2024, Đức đã lên tiếng phản đối, cho rằng trên danh nghĩa bảo tồn di sản âm thực, đề nghị của Thổ Nhĩ Kỳ lai có nguy cơ làm tăng giá döner kebab trên thị trường, gây bất lợi cho ngành chuyên kinh doanh kebab tại Đức. Hiện nay, doanh thu ngành döner kebab tại châu Âu đạt 3 tỷ rưỡi euro mỗi năm, trong đó nước Đức chiếm đến 65% thị trườngvới 2,3 tỷ euro hàng năm. Cuộc tranh luận về döner kebab cho tới nay vẫn chưa ngã ngũ. Nhưng trong mắt thực khách Pháp dường như lợi thế vẫn nghiêng về phía nước Đức. Trong số hơn 100 quán kebab được khai trong trong năm vừa qua, hơn một phần ba là của chuỗi nhà hàng « Berliner Das Original ». Xuất phát từ thủ đô nước Đức, chuỗi quán ăn này luôn được quảng cáo làm món döner kebab chẳng những đúng điệu mà còn chính hiệu.…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
Ngày 29/10/2024, Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên đã công bố báo cáo thường niên đầu tiên – Tutela Minorum – bằng tiếng Latinh, về việc các thành phần khác nhau của Giáo hội áp dụng các biện pháp chống bạo lực tình dục đối với trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương. Tài liệu cho thấy việc thực hiện không đồng đều giữa các quốc gia. Báo cáo này được thực hiện bằng việc phỏng vấn các giám mục về Roma viếng thăm ad limina theo định kỳ. Trong phần tạp chí hôm nay, linh mục Phạm Hoàng Dũng từ Liège, Bỉ, trình bày về vấn đề này: Báo cáo đã được chờ đợi hơn hai năm, khi Đức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên (PCPM) cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn cầu về cuộc chiến chống lại bạo lực tình dục trong Giáo hội. Đức Hồng Y Seán Patrick O'Malley, chủ tịch ủy ban, trong buổi công bố báo cáo đã trực tiếp thừa nhận với các nạn nhân và « những người sống sót » là « đã có đủ những lời nói suông » và « chưa làm gì đầy đủ » đối với những vụ việc này. Sự thiếu minh bạch Trước tiên là đề nghị « thúc đẩy tốt hơn việc tiếp cận thông tin của nạn nhân/người sống sót – survivor », nhằm đảm bảo rằng nạn nhân bị lạm dụng có quyền xem thông tin mà các cơ quan của Giáo hội nắm giữ về họ, đồng thời tôn trọng luật bảo vệ dữ liệu. Bởi vì một trong những ưu tiên cao nhất mà các nạn nhân bị lạm dụng bày tỏ là quyền được « tiếp cận sự thật ». PCPM đang yêu cầu Giáo hội hỗ trợ, thay vì cản trở, các nạn nhân khi họ tìm kiếm sự thật thông qua một hệ thống thường khó điều khiển. Báo cáo nhấn mạnh đến « nhu cầu củng cố và làm rõ các thẩm quyền của các Bộ thuộc Giáo triều (Curie) Roma, nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả, kịp thời và nghiêm ngặt các trường hợp lạm dụng được chuyển đến Tòa thánh ». Tính minh bạch trong các thủ tục và các tiến trình pháp lý của các vụ việc được chuyển đến các bộ xử lý để không làm mất lòng tin của cộng đoàn tín hữu. Báo cáo kêu gọi Giáo hội áp dụng “một định nghĩa thống nhất hơn” về “tính dễ bị tổn thương - vulnerabilité ” - một khái niệm cơ bản trong việc bảo vệ công lý ở thế kỷ 21, đồng thời đề nghị « một quy trình hợp lý hóa để bãi nhiệm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi và đơn giản cho việc từ chức hoặc cách chức một nhà lãnh đạo Giáo hội khi cần thiết » Các báo cáo viên đã chỉ ra rằng các chuẩn mực đang được áp dụng một cách không nhất quán và không minh bạch trên toàn thế giới, gây thiệt hại xung quanh việc cách chức giám mục. Chính sách bồi thường và cách biệt trong thực hiện Một vấn đề khác cũng được báo cáo nhấn mạnh đến là việc xác định thiệt hại và chính sách bồi thường cho các nạn nhân, xem đây như là một phần trong cam kết của Giáo hội đối với hành trình chữa lành nạn nhân/người sống sót. Các tác giả báo cáo cho rằng « việc bồi thường không chỉ giới hạn ở khía cạnh tài chính, mà bao gồm nhiều hành động rộng hơn nhiều », kể cả xin lỗi công khai. Văn bản này cũng nêu bật hiện tượng quyền tiếp cận các quỹ bồi thường giữa các châu lục là không đồng đều. Báo cáo viết : « Trong khi một số khu vực của châu Mỹ, châu Âu và châu Đại Dương được hưởng lợi từ các nguồn lực đáng kể có sẵn để bảo vệ, thì phần một quan trọng của Trung – Nam Mỹ, châu Phi và châu Âu lại không có đủ nguồn lực chuyên dụng ». Thực lực kinh tế, tỷ lệ người Công giáo, nền tảng văn hóa tại một quốc gia hiển nhiên là những yếu tố chính dẫn đến hiện tượng cách biệt phân bổ nguồn lực, do vậy, báo cáo kêu gọi một sự chia sẻ nguồn lực tốt hơn, thông qua sáng kiến Memorare của PCPM, được Hội đồng Giám mục Ý hậu thuẫn. Cuối cùng, để cuộc chiến chống lạm dụng có hiệu quả, Giáo hội cần có « một tầm nhìn thống nhất về thần học – mục vụ ». Văn bản viết, xin trích : « Ủy ban tin rằng điểm kết thúc mong muốn có thể là một bản văn huấn quyền - Magisterium thống nhất các quan điểm này như một thông điệp của giáo hoàng dành riêng cho việc bảo vệ trẻ em và người lớn dễ bị tổn thương trong đời sống của Giáo hội ». PCPM gợi ý cách tốt để thúc đẩy cuộc đấu tranh chống lạm dụng là giáo hoàng nên dành một thông điệp cho chủ đề này. Tuy đã có rất nhiều văn bản của giáo hoàng đề cập đến vấn đề lạm dụng, như thư mục vụ năm 2010 của Giáo hoàng Beneđictô XVI gửi cho người Công giáo Ireland. Nhưng không có văn bản nào có trọng lượng như một bản văn huấn quyền. 20 năm sau vụ Boston Ở đây có sự trùng hợp thú vị, người đứng đầu Ủy ban, Đức Hồng Y Seán Patrick O'Malley, cũng vừa từ chức Tổng giám mục Boston, Hoa Kỳ, vì đến tuổi nghỉ hưu. Giáo phận Boston, nơi bùng nổ vụ Spotlight, các linh mục vi phạm ấu dâm đã bị đưa ra toà án hình sự, dẫn đến sự phá sản của giáo phận vừa về tài chánh và uy tín. Sau 20 năm, uy tín đó đã lấy lại phần nào nhưng dư âm của nó sẽ chẳng bao giờ im lặng. Có lẽ cũng vì lý do này mà sau khi từ chức Tổng giám mục Boston, Đức Hồng Y Seán Patrick O'Malley sẽ tập trung nhiều hơn trong công việc của Uỷ ban bảo vệ trẻ vị thành niên này. Ngài cho biết, phụ nữ, chiếm hơn phân nửa trong ủy ban, đã làm rất tốt công việc nặng nề phức tạp. Ngoài ra, ông cũng bày tỏ ủng hộ việc một phụ nữ sẽ đứng đầu ủy ban này. Nhưng điều đó sẽ trở nên phức tạp hơn trong việc vận hành bộ máy của Vatican, vốn cần đến một vị Hồng y làm công việc ngoại giao giữa các bộ và các phòng ban của Toà Thánh. Còn về phần Bộ giáo lý Đức Tin ? Trong buổi tiếp kiến ngày 22/11 với Đức Giáo hoàng Phanxicô, Hồng y Víctor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã trình bày một đề xuất về « Tinh thần bí giả và sự lạm dụng tâm linh – false mysticism and spiritual abuse ». Khái niệm này đã được Bộ công nhận « trong một bối cảnh rất cụ thể », Đức Hồng y đã viết trong một tài liệu chuẩn bị. Bộ Giáo lý Đức tin đã giao cho một nhóm nghiên cứu xem xét cách « lạm dụng tinh thần » có thể được phân loại là một tội riêng biệt và cụ thể theo giáo luật. Trong khi lạm dụng tinh thần và việc triển khai « Tinh thần bí giả - false mysticism » đã được Giáo hội công nhận là một yếu tố tăng nặng tiềm ẩn trong các vấn đề hình sự khác, thì nó không được liệt kê cụ thể là một tội có thể bị truy tố theo đúng nghĩa của nó trong Bộ Giáo Luật. Bằng chứng từ nhiều trường hợp cho thấy rằng một giai đoạn lạm dụng tinh thần có thể xảy ra trước các hình thức lạm dụng khác, nhưng thường thì nó có thể được coi là chủ quan, hoặc không có kết luận khi được báo cáo. Vậy thì một tội « lạm dụng tinh thần » thực sự có thể được đưa vào luật hay không và nếu có thì việc truy tố sẽ dễ dàng như thế nào? Góc nhìn từ Giáo Hội Việt Nam Báo cáo nói đến “sự im lặng” của Phi Châu và Á châu, Giáo hội ở Việt Nam đối diện với vấn đề này như thế nào ? Đúng là tại các nơi này, nam giới vẫn có tiếng nói quyết định trong các vấn đề quan trọng của gia đình và xã hội. Riêng ở Việt Nam, tuy đã có các luật và những cơ quan bảo vệ trẻ em và phụ nữ, cũng như những chính sách cho người yếu thế, tuy thế nạn bạo hành đối với trẻ em và vị thành niên vẫn còn xảy ra. Trong Giáo Hội Việt Nam, việc phòng ngừa và xử lý trước nạn lạm dụng tình dục này còn rất chậm. Chẳng hạn, như tông thư Vos estis lux mundi được công bố lần đầu năm 2019, và cập nhật chính thức tháng 3/2022, nhưng chỉ mới đến khoá họp thường niên kỳ I của năm nay 2024 Hội đồng giám mục mới có « Thảo luận và định hướng áp dụng “Các Quy tắc đạo đức ứng xử trong mục vụ liên quan đến trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương” ». Nói đến điều này, cần nghĩ đến sự phức tạp của vấn đề, vì không thể áp dụng máy móc những gì ghi trong bản văn của Toà Thánh, mà cần có sự áp dụng một cách khoa học vào hoàn cảnh của Việt Nam. Ngược lại, Giáo hội Pháp đã có nhiều biện pháp cũng như văn bản liên quan đến vấn đề này. Trong khoá họp mùa thu năm nay, Hội đồng giám mục Pháp đã đồng ý đưa ra biện pháp, đó là khi các hối nhân, tức là những người đi xưng tội, thú nhận đã phạm tội lạm dụng này, thì các linh mục giải tội khuyên họ đi tự thú với cảnh sát. Trong thời gian tới sẽ có hướng dẫn cho các linh mục làm mục vụ liên quan đến vấn đề này. RFI Tiếng Việt xin cảm ơn linh mục Phạm Hoàng Dũng từ Liège, Bỉ .…
Bão Yagi tháng 9/2024 được coi là trận cuồng phong lớn nhất từ khoảng 30 năm nay ở Biển Đông. Thông tin về bão vào thời điểm ập vào bờ biển miền bắc Việt Nam được cơ quan khí tượng thủy văn cập nhật sát. Tuy nhiên, dự báo - cảnh báo về các hậu quả nhiều mặt của bão ở miền núi đã ít được chú ý hơn rất nhiều. Trên thực tế, đa số người chết là do đất lở, lũ đá, lũ quét ở trung du và miền núi. Chính quyền trung ương và nhiều địa phương bị chỉ trích đã không có các biện pháp tương thích. Theo thừa nhận của nhiều giới chức quản lý và khoa học trên truyền thông trong nước, dù bão Yagi và mưa ‘‘ hoàn lưu ’’ sau đợt thiên tai này là hiếm có, song nhiều mạng sống có thể đã cứu được nếu có các dự báo, cảnh báo đúng lúc và kế hoạch sơ tán kịp thời. Tuy nhiên, dự báo và cảnh báo kịp thời chỉ là một phần của vấn đề. Một số chuyên gia nói đến trận bão lớn đầu tiên cho thấy Việt Nam rõ ràng đã bước vào kỷ nguyên biến đổi khí hậu, cần đến một chiến lược mới. *** Đa số người chết do sạt lở, lũ quét, nhưng tác động đến miền núi bị coi nhẹ Theo bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam, sơ bộ tính đến ngày 27/9, bão Yagi và mưa lũ sau bão đã khiến 344 người chết và mất tích, trong đó có 264 người chết do sạt lở đất, lũ đá, lũ quét. Tại tỉnh Yên Bái, trong số 54 người thiệt mạng, chỉ có 3 người chết do đuối nước, 51 nạn nhân còn lại là do sạt lở đất, sập nhà gây tử vong. Vụ lũ bùn đá ở Làng Nủ (Lào Cai) ngày 10/09 được coi là tai nạn thảm khốc tiêu biểu. Theo các nhà khoa học, ước tính hơn 1,3 triệu mét khối đất đá, bùn nước trút xuống ngôi làng trong vòng 5 phút khiến dân làng không kịp trở tay, vùi lấp 37 nhà dân, khiến hơn 60 người chết và 7 người mất tích. Cùng ngày 10/09, thôn Nậm Tông (tỉnh Lào Cai) bị đất đá lở vùi lấp khiến 18 người chết và mất tích. Cũng không thể không nhắc đến vụ đất lở rạng sáng ngày 09/09 trên quốc lộ 34 , huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, cuốn hai ô tô, nhiều xe máy xuống vực, khiến hơn 30 người chết. Trả lời RFI tiếng Việt, về phản ứng cảnh báo và sơ tán cấp thời, giáo sư Nguyễn Ngọc Lung (Hà Nội) nhận định : ‘‘ Các địa phương đều nhận thấy là các chuẩn bị của mình là chưa đạt yêu cầu. Có nghĩa là đã báo trước là có cơn bão mạnh nhất trong vòng thế kỷ vừa qua, nhưng sự chuẩn bị của mình là chưa đạt yêu cầu tí nào. Đặc biệt là những nơi núi cao, đèo sâu, xa dân cư. Chính vì thế nó mới trôi cả làng. Trôi rồi mới biết. Cơn bão này đến thì chuẩn bị không được bao nhiêu. Lý do thứ nhất là báo trước không được nhiều lắm. Thứ hai là thường cái bão đặc biệt ở vùng nhiệt đới, nhất là ở Đông Nam Á đi chệnh hướng nhiều lắm. Lúc đầu người ta nghĩ đi vào hướng Trung Quốc, nhưng khi vào Biển Đông rồi thì rẽ ngang qua đảo Hải Nam, rồi vào Bắc Bộ mạnh hơn. Việt Nam không báo được đầy đủ. Tất cả tiềm lực tập trung cho hai tỉnh, Hải Phòng và Quảng Ninh. Sau khi nó vào đồng bằng rồi, nó sớt qua biên giới Việt-Trung, rồi thì nó đi ngang, đi vào Thanh Hóa, đi vào Nghệ An. Có nghĩa là nó thay đổi phương hướng, lường trước không được bao nhiêu. Những cái ấy mình còn rất yếu, mặc dù có sự phối hợp với các nước xung quanh. Bây giờ thiệt hại thì ai thiệt hại nhiều nhất? Chính thiệt hại các tỉnh miền núi nhiều nhất. Họ cứ nghĩ mưa với bão thì miền núi bao giờ cũng tránh được. Chỉ có đồng bằng nước mới đổ về mới phải quan tâm. Như vậy anh đã không quan tâm đầy đủ cho chính những vùng bị nguy hiểm nhất, và bị thiệt hại về nhân mạng nhiều nhất.’’ Trên báo chí trong nước, hai tác giả Hà Thị Hằng và Lưu Thị Diệu Chinh nêu giả thiết là so với các vùng đồng bằng và ven biển, ‘‘ dường như đang có sự thiên lệch trong việc đối phó với thiên tai ở các tỉnh miền núi: sự quan tâm dường như nghiêng về giải quyết khi “sự đã rồi” hơn là quá trình phòng bị trước thảm họa ’’ (Bài ‘‘ Thảm kịch lũ quét và sạt lở sau bão Yagi: Sự cố hi hữu hay vấn đề hệ thống? ’’ , Tia Sáng, ngày 08/10/2024). Đất nhão dễ dàng sụp đổ do nắng to - mưa nhiều: Điều hoàn toàn có thể dự đoán Trên thực tế, các tác động khác thường của bão Yagi và hoàn lưu bão dường như là điều mà giới chuyên gia khí tượng thủy văn và địa chất học hoàn toàn có thể dự báo được. Tình trạng mưa liên tục trong tháng 8 trước cơn bão lịch sử (với 23 trên 31 ngày mưa ở Lào Cai, và 21/31 ngày ở Yên Bái), với tổng lượng nước vượt 40 – 60% trung bình năm, cho thấy đất đã ngậm no nước ngay trước bão, với lượng mưa lịch sử như chúng ta biết. Trước khi hứng chịu đợt mưa lớn, khu vực miền núi phía Bắc đã chịu một đợt nắng nóng kéo dài (từ tháng 4 đến tháng 7), với hệ quả là cấu trúc của đất đã bị phá hủy đáng kể. Mưa nhiều sau đó khiến đất dễ dàng nhão ra, sẵn sàng sụp đổ bất ngờ. Chính quyền Việt Nam trong những năm gần đây đã có biện pháp để thúc đẩy việc dự báo lũ quét, sạt lở, đặc biệt sau đợt bão lớn ở miền trung 2020. Năm 2023 chính phủ phê duyệt Đề án ‘‘ Cảnh báo sớm sạt lở đất và lũ quét tại khu vực miền núi và trung du Việt Nam ’’, nhằm hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất cho 37 tỉnh ở miền núi và trung du ngay trong năm 2025, đặc biệt tập trung vào 150 điểm có nguy cơ cao nhất, với bản đồ chi tiết với tỉ lệ 1/10.000 (tức 1cm trên bản đồ tương đương 100 mét trên thực địa), thậm chí nhỏ hơn. Khâu dự báo, cảnh báo thảm hoạ thiếu đầu mối thống nhất…, Tuy nhiên, để cảnh báo tốt thảm họa cần phối hợp nhiều thông số từ các ngành khác nhau (khí tượng thủy văn, địa chất, lâm nghiệp, công trình xây dựng…). Nhiều chuyên gia chỉ trích là đề án nói trên của chính phủ nhiều khả năng sẽ kém hiệu quả bởi giao cho nhiều cơ quan, mà thiếu đầu mối thống nhất (Bài ‘‘ Vì sao bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất chưa phát huy hiệu quả? ’’, Báo Sức khoẻ và Đời sống , ngày 04/10/2024). Theo ông Tạ Đức Thịnh, chủ tịch Hội Địa chất công trình và môi trường Việt Nam, cũng như một số chuyên gia địa chất, cần một cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất để tránh tình trạng không có phối hợp. Hiện tại có nhiều cơ quan phụ trách việc cảnh báo (như cục Địa chất thuộc bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản và tổng cục Khí tượng - Thủy văn). Mỗi cơ quan lại sử dụng phương pháp và công nghệ khác nhau để xác định bản đồ sạt lở, lũ quét. Kết quả là những bản đồ hiện nay thường rời rạc, không bao phủ được đầy đủ các nguy cơ, dẫn đến khả năng dự báo thiếu chính xác. Theo một đại diện Trung tâm Dự báo khí tượng - thủy văn quốc gia, Trung tâm này đưa ra cảnh báo chỉ dựa trên chỉ số lượng mưa mà không nắm được thực tế ở khu vực (từ thực trạng rừng, độ dốc, cấu tạo địa chất đến mật độ công trình xây dựng, dòng chảy và vật cản…). … khâu phòng ngừa thiếu một chiến lược tổng thể và liên ngành Bên cạnh việc thiếu quản lý thống nhất về cảnh báo, việc thiếu một chiến lược quốc gia phát triển bền vững các vùng đất dốc với sự phối hợp liên ngành cũng là một khuyết thiếu lớn hiện nay. Trong bài nhận định về ‘‘ Quy hoạch vùng dân cư và xây dựng bản đồ thiên tai để tránh sạt lở, lũ quét ’’, PGS - TS Trần Tuấn Anh, viện trưởng Viện Địa chất, một lãnh đạo của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã không hề nhắc đến vai trò của rừng trong việc giảm nhẹ các thảm họa ở các vùng đất dốc (Dangcongsan.vn, ngày 07/10/2024). Trả lời RFI tiếng Việt, giáo sư Đỗ Minh Đức, khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội nhận xét: ‘‘ Ở rất nhiều nước, trong đó có một số quốc gia lân cận với Việt Nam, như Malaysia, đã có kế hoạch tổng thể quốc gia phát triển bền vững các vùng đất dốc. Thực ra kế hoạch của họ có nhiều điểm chúng ta đã và đang làm rồi, ví dụ như việc xây dựng một số bản đồ với các tỉ lệ khác nhau, xác định các vùng có nguy cơ cao và rất cao. Nhưng bên cạnh đó, họ đã kết hợp với các cơ sở dữ liệu khác về điều kiện kinh tế xã hội, rồi về các yếu tố có ảnh hưởng trong tương lai, như các kịch bản biến đổi khí hậu, hay các kịch bản về sử dụng đất... Những điều này về cơ bản đâu đó chúng ta đã có rồi, nhưng chúng ta chưa có người điều phối chung, để tích hợp các thông tin trong bản đồ quy hoạch tổng thể chung. Ở đây, về mặt khoa học, chắc chắn phải cần khoa học liên ngành rồi, bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và kinh tế, và kể cả các vấn đề về văn hóa, tập tục của các cộng đồng, sinh kế và các giá trị văn hóa đặc thù của miền núi Việt Nam, vai trò của các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách là vô cùng quan trọng. Thực ra là các lĩnh vực chuyên ngành đều làm cả rồi, nhưng tích hợp với nhau thì chưa có .’’ “ Rừng Phòng Hộ ” : Linh hồn của cuộc chiến chống nạn đất lở Cách nay 4 năm, sau trận bão lịch sử ở miền Trung Việt Nam, nhà văn Nguyên Ngọc có bài ‘‘ Đất chảy ’’ gây nhiều chú ý trong công luận, dẫn lại ý tưởng của giáo sư Nguyễn Ngọc Lung: ‘‘c òn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất, 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm… Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại, chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm, hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất… Còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt…. Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên, chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt, với cỏ, với cao su, keo, cà phê… tràn lan, là các loại cây không có bộ rễ giữ nước... 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ, làng mạc và con người .’’ ('' Đất chảy ' ', Người Đô Thị, 08/10/2020). " Rừng " ở Việt Nam theo số liệu chính thức chiếm đến hơn 40% diện tích lãnh thổ (với 14,78 triệu ha). Nhưng về mặt nguyên tắc, số lượng rừng thực sự có khả năng góp phần ngăn ngừa hoặc hạn chế thảm hoạ chiếm không quá 20%, bao gồm Rừng Đặc Dụng và Rừng Phòng Hộ (Protection Forest) (với gần 7 triệu ha theo số liệu của cục Lâm Nghiệp ). Tuy nhiên, ngay trong số 20% này, còn bao nhiêu rừng thực sự có giá trị phòng hộ ? Tại các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất về nhân mạng trong đợt bão Yagi vừa qua, tình trạng khai thác bất hợp pháp Rừng Phòng Hộ là điều đã liên tục được báo động. Theo một chuyên gia trong nước, ‘‘ cần nhấn mạnh nguyên nhân quan trọng là hậu quả phá rừng tự nhiên ở nước ta và cần xem xét lại việc trồng cây kinh tế độc canh trên diện tích rừng cũ mà vẫn gọi đó là “phục hồi rừng” và gộp vào thống kê diện tích rừng ’’ (bài “ Cái giá của việc thay thế rừng bằng cây độc canh: Từ lợi ích ngắn hạn đến hậu quả dài lâu ” của Tô Văn Trường, báo Nông nghiệp, ngày 04/10/2024). Việc Rừng Phòng Hộ bị triệt phá, bị thay thế bằng " Rừng Sản xuất ", có tác động như thế nào đối với tình trạng đất lở diễn ra phổ biến tại nhiều tỉnh miền núi Tây Bắc ? Vụ đất lở rạng sáng ngày 09/09 trên quốc lộ 34, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, khiến hơn 30 người chết, cùng hàng loạt vụ đất lở trong khu vực, phần nào do khai thác quặng trái phép, phần nào do phá Rừng Phòng Hộ, hay do không có Rừng Phòng Hộ…? Rất cần đến các khảo sát độc lập để thẩm định. Biến đổi khí hậu: Bài học bão lũ miền Trung 2020 chưa thấm, Yagi đã đến Giáo sư TSKH Nguyễn Ngọc Lung, viện trưởng Viện Quản lý Rừng bền vững, nguyên cục trưởng cục Lâm Nghiệp, bộ Nông Nghiệp Việt Nam, đặc biệt lưu tâm đến việc biến đổi khí hậu làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan là điều dường như vẫn chưa được giới chức trách hiện tại chú ý đúng mức, bất chấp trận bão lớn bất thường ở miền Trung: ‘‘ Biến đổi khí hậu đến ngoài sức tưởng tượng của con người. Hàng bao nhiêu thế kỷ đã theo quy luật về mùa bão, rồi lượng bão, rồi tốc độ, tần số… Tất cả những cái đó đã được đưa vào sách giáo khoa. Bao nhiêu thế kỷ đã qua. Từ thời Pháp sang Việt Nam, thống kê của Pháp đã được in thành sách, từng điểm quan sát khí tượng thủy văn một. Các đài khí tượng thủy văn cũ của Pháp cho đến nay vẫn được duy trì, đều có báo, có thu thập số liệu để cho các nhà nghiên cứu. Nhưng khi dự báo vào thời kỳ của biến đổi khí hậu thì những số liệu trên chỉ có tính tham khảo, không còn là quy luật dùng để tránh nữa. Cách đây 5 năm đã có một cơn bão vào miền Trung tương đối mạnh, thiệt hại tương đối lớn. Đấy là một cảnh báo mà thiên nhiên giúp cho mình. ’’ Dựa vào Mẹ Thiên Nhiên hay để mặc cho Đất Chảy ? Để giảm thiểu nạn người chết do đất lở, trong giới khoa học, quản lý tại Việt Nam, đã có một số tiếng nói gióng lên kêu gọi sớm có một chiến lược phát triển bền vững tại các vùng đất dốc. Nạn phá rừng, tình trạng Rừng Phòng Hộ không đủ số lượng, trồng cây độc canh tại các vùng Rừng Phòng Hộ, biến Rừng Phòng Hộ thành " Rừng Sản Xuất ", bạt núi san đồi bừa bãi, đất rừng bỏ hoang quy mô lớn…, được truyền thông trong nước điểm mặt như các tác nhân chính đe dọa độ ổn định của các vùng đất dốc, ngày càng đẩy người dân vào thế bị động trước nạn đất lở, lũ đá. Chưa kể đến việc '' Rừng Sản Xuất " thường bị ‘‘ khai thác trắng ’’, đường vận chuyển lâm sản không được quy hoạch hợp lý, làm ‘‘ biến dạng đồi núi, xói mòn đất đai, tụt mạch nước ngầm ’’, gia tăng nguy cơ sạt lở, lũ lớn. Trên thực tế, trước trận bão Yagi tháng 9/2024, hoàn toàn không phải chính quyền không biết trước các hậu quả nghiêm trọng của việc thiếu dự báo và thiếu các biện pháp phòng vệ đối với các khu vực nhiều nguy cơ đất lở, lũ đá. Yagi chỉ là màn dạo đầu. Biến đổi khí hậu sẽ ngày càng gia tăng, các hậu quả được dự báo sẽ còn nghiêm trọng gấp bội. Miền núi phía bắc Việt Nam được coi là một trong những khu vực dễ tổn thương nhất thế giới trước biến đổi khí hậu (do năng lượng hóa thạch tạo khí thải gây hiệu ứng nhà kính) và do các tác động khác của con người đến môi trường (*). Thiên tai giờ đây ngày càng là Nhân - Thiên Tai, tức các thảm họa môi trường do thời tiết – khí hậu trong đó có phần rất lớn là do chính con người. Trong giai đoạn lựa chọn quyết định này, chính quyền Việt Nam sẽ áp dụng rộng rãi và thực chất (**) Các Biện pháp dựa vào Thiên Nhiên ( Nature based Solutions - NbS), đặc biệt là với Rừng Phòng Hộ, để giảm thiểu nguy cơ các thảm hoạ Nhân - Thiên Tai hay tiếp tục vì những cái lợi ngắn hạn mà để mặc cho “ Đất Chảy ”, người chết? *** Theo một số chuyên gia, như giáo sư Nguyễn Ngọc Lung, để ngăn ngừa hiệu quả nguy cơ đất lở, lũ đá tại các vùng đất dốc, bên cạnh 5 tiểu loại Rừng Phòng Hộ đã có (gồm rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng bảo vệ nguồn nước, rừng an ninh - quốc phòng, rừng chắn gió – chắn cát và rừng chắn sóng - lấn biển, theo Luật Lâm Nghiệp 2017), có thể đã đến lúc cần xem xét xác lập tiểu loại thứ 6, Rừng Phòng Hộ vùng Đất Dốc để đối phó với đe dọa trên phạm vi toàn quốc này, đang ngày càng trở nên đáng sợ hơn, do Biến đổi Khí hậu. Ghi chú (*) Một nghiên cứu mới đây cho thấy các vùng núi miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam thuộc 45 vùng núi có ‘‘nguy cơ sạt lở cao nhất thế giới’’ (trong tổng số hơn 1.000 vùng núi trên Trái đất), do nạn phá rừng và biến đổi khí hậu. Để giảm thiểu nguy cơ, nghiên cứu - đăng tải trên PNAS, tạp chí đa ngành của Viện Hàn Lâm Khoa học M ỹ - khuyến nghị ‘‘mở rộng các khu bảo tồn rừng, giảm nạn phá rừng và phục hồi rừng’’ (bài “Strategic protection of landslide vulnerable mountains for biodiversity conservation under land-cover and climate change impacts”, PNAS, 3/2022) . (**) Đầu năm 2024, chính phủ Việt Nam đã công bố một đề án thí điểm “ nâng cao chất lượng rừng nhằm bảo tồn hệ sinh thái rừng và phòng, chống thiên tai đến năm 2030 ”, với đối tượng là 36.000 ha Rừng Đặc Dụng và 138.000 ha Rừng Phòng Hộ đang trong tình trạng ‘‘ nghèo ’’, ‘‘ nghèo kiệt ’’ hoặc ‘‘ chưa có trữ lượng ’’ ( Quyết định 171 ). Đề án bắt đầu đặt vấn đề ‘‘xây dựng các mô hình điểm nâng cao chất lượng rừng bằng nhiều loài cây bản địa có cấu trúc đa tầng, đa loài, nâng cao khả năng bảo tồn của hệ sinh thái rừng và chức năng phòng hộ của rừng trên điều kiện lập địa khó khăn, vùng đất dốc…’’. Diện tích nói trên mới chỉ chiếm hơn 2% tổng diện tích rừng đặc dụng và rừng phòng hộ toàn quốc. Tuy nhiên, đề án của chính phủ Việt Nam đã bước đầu thừa nhận việc cần ‘‘rà soát’’ hiện trạng, tổng diện tích Rừng Phòng Hộ và Rừng Đặc Dụng “nghèo’’, ‘‘nghèo kiệt’’.…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 "Người hùng giải cứu môi trường" Elon Musk có ảnh hưởng đến chính sách khí hậu của Donald Trump? 9:27
Ảnh hưởng của Elon Musk đối với chính sách môi trường dưới thời Donald Trump ? Liên Hiệp Quốc lo ngại trước sự trở lại của tân tổng thống bảo thủ Mỹ ; Cuộc « trả thù xã hội » trong vụ tấn công « xe điên » ở Trung Quốc, khiến 35 người thiệt mạng ; Sự trở lại của xu hướng « Người mẫu gầy » - chuẩn mực của cái đẹp trong giới thời trang. Trên đây là những chủ đề chính trong mục tạp chí thế giới đó đây tuần này. Hội nghị Khí hậu quốc tế của Liên Hiệp Quốc – COP 29, diễn ra tại Baku, Azerbaijan là một trong những sự kiện nổi bật trong tuần vừa qua. Nội dung chính của kỳ họp năm nay là đàm phán về hỗ trợ tài chính của các nước giàu cho các nước nghèo chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng, giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và thích ứng tốt hơn trước các thiên tai. Sự kiện năm nay bị đánh dấu bởi nhiều nghịch lý, từ nước chủ nhà một sự kiện về khí hậu, « yêu chuộng dầu khí » , đến cái bóng của tân tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, coi biến đổi khí hậu là một « cú lừa lịch sử từ giới khoa học », tạo bầu không khí u ám, trước nguy cơ Hoa Kỳ rút khỏi thỏa thuận Khí hậu Paris 2015, trong khi Mỹ phát thải CO2 nhiều nhất thế giới. Theo một báo cáo công bố hôm qua, sự trở lại của Donald Trump có thể khiến nhiệt độ trái đất tăng thêm 0,04 độ C từ nay đến cuối thế kỷ. Elon Musk với chính sách môi trường dưới thời Donald Trump? Vài tuần trước khi trở lại Nhà Trắng, Donald Trump đã bổ nhiệm Elon Musk vào bộ Hiệu quả Chính phủ, phụ trách cải cách bộ máy chính phủ và cùng lãnh đạo cơ quan này với Vivek Ramaswamy, một doanh nhân gốc Ấn Độ. Trong lĩnh vực môi trường, Elon Musk từng được ca ngợi là một siêu anh hùng « Iron Man » vì một mình giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu thông qua xe điện Tesla, góp phần vào một tương lai của năng lượng xanh và thúc đẩy các loại thuế để giảm năng lượng về hóa thạch, theo nhận định của The Guardian . Trong bối cảnh Hội nghị Khí hậu của Liên Hiệp Quốc COP-29 diễn ra ở Azerbaijan, phủ bóng Donald Trump, sự ủng hộ của vị tỷ phú Mỹ, chủ của SpaceX và Tesla, liệu có tác động đến chính sách môi trường của Hoa Kỳ trong những năm sắp tới hay không, khi gia nhập nội các của Trump ? Trước đây, Donald Trump từng chỉ trích xe điện, nhưng với sự ủng hộ từ Elon Musk, tổng thống Hoa Kỳ đã thay đổi quan điểm, và coi đó là thành tựu lớn. Trên thực tế, niềm tin vào nhà tỷ phú Musk về vấn đề khí hậu đã bị lu mờ bởi sự ủng hộ « không giới hạn » của ông đối với các chính trị gia cánh hữu, đặc biệt là Donald Trump. Hơn nữa, các hình ảnh « xanh » mà Elon Musk tạo dựng từ nhiều năm qua chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Hãng xe điện Tesla được « ca tụng » là giải pháp thay thế năng lượng hóa thạch nhưng quá trình sản xuất vẫn tiêu thụ năng lượng hóa thạch và kim loại gây ô nhiễm. Đứng đầu doanh nghiệp về hàng không vũ trụ SpaceX, Elon Musk công khai bày tỏ tự hào trên mạng X về các vụ phóng tên lửa tái sử dụng, trong khi các chuyến « du hành » vào vũ trụ có lượng khí thải carbon cao, gấp 200-300 lần so với các chuyến bay đường dài thông thường. Elon Musk cũng gây sự chú ý với giải thưởng Xprize trị giá 100 triệu đô la, phát triển công nghệ loại bỏ carbon khỏi không khí nhưng dự án Starlink của SpaceX, cung cấp dịch vụ Internet qua vệ tinh, cũng gây lo ngại về ô nhiễm, khi các vệ tinh rơi xuống trái đất, và phát ra khí thải có hại cho bầu khí quyển. Lối sống của Musk, đặc biệt là việc sử dụng máy bay riêng, thải ra lượng carbon lớn, đưa ông vào nhóm người « siêu phát thải » Mạng xã hội X mà Elon Musk mua lại hồi 2022, thường xuyên bị chỉ trích vì cho phép loan truyền thông tin sai lệch về biến đổi khí hậu. Dù ủng hộ năng lượng tái tạo, nhưng Musk lại không coi biến đổi khí hậu là vấn đề khẩn cấp mà cho rằng còn « 50 hoặc 100 năm » để hành động, trong khi báo cáo của GIEC cảnh báo rằng nếu không có hành động mạnh mẽ, tác động của biến đổi khí hậu sẽ trở nên nghiêm trọng vào năm 2050. Tỷ phú giàu nhất hành tinh cũng cho rằng việc bảo vệ môi trường « không nên gây ra thay đổi quá lớn cho xã hội ». Liên Hiệp Quốc lo ngại trước sự trở lại của Donald Trump Ngoài vấn đề môi trường, sự trở lại của Donald Trump cũng khiến nhiều định chế quốc tế quan ngại, với lập trường bảo thủ « America First », đặc biệt là Liên Hiệp Quốc. Cho đến nay, Hoa Kỳ đóng góp nhiều nhất cho Liên Hiệp Quốc nhưng lại bị Donald Turmp coi là không phục vụ lợi ích của Mỹ. Từ Genève, thông tín viên Jérémie Lanche cho biết thêm thông tin : « Một trong những điểm đáng chú ý trong nhiệm kỳ đầu tiên của Donald Trump là việc áp dụng chính sách « để ghế trống », rút Mỹ ra khỏi nhiều định chế thế giới, Hội đồng Nhân Quyền, và Tổ chức Kinh tế Thế giới. Jussi Hanhimaki, giảng viên chính trị quốc tế, chuyên gia về Hoa Kỳ tại Graduate Institut de Genève cho rằng với nhiệm kỳ thứ hai sắp tới, Trump sẽ vẫn giữ lập trường tương tự. Ông nói : « Chúng ta sẽ chứng kiến cảnh nước Mỹ rút khỏi, hoặc giữ khoảng cách với nhiều đinh chế, đặc biệt là Tổ chức Kinh tế Thế giới. Mọi người đã biết đến câu nói của Donald Trump : ‘Hàng rào thuế quan là cụm từ đẹp nhất trong từ điển » Do vậy, đúng là không còn nghi ngờ gì nữa, Hoa Kỳ sẽ vắng bóng hơn, tại Liên Hiệp Quốc. Việc bổ nhiệm Elise Stefanik vào vị trí tân đại sứ của Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc cũng phần nào đi theo hướng này. Bà Stefanik đấu tranh cho việc đánh giá lại toàn bộ nguồn tài trợ của Hoa Kỳ cho Liên Hiệp Quốc. Chuyên gia về Hoa Kỳ nói thêm : « Châu Âu phải nhận thức được là không phải chỉ vì mỗi Donald Trump mà điều này trở thành một khuynh hướng trong chính trị Hoa Kỳ. Dù là NATO hay Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ cho rằng họ không cần phải chi trả cho tất cả các nước ». Đây là vấn đề lớn đối với Liên Hiệp Quốc, Washington là nước đóng góp lớn nhất vào ngân sách của định chế này, hơn cả Trung Quốc. Bắc Kinh đã được hưởng lợi nhiều từ nhiệm kỳ của Donald Trump, để gia tăng sức ảnh hưởng và hiện diện tại Liên Hiệp Quốc. » Trung Quốc : Tranh cãi sau vụ « xe điên » tông chết 35 người Nhìn sang châu Á, trong tuần vừa qua, một vụ xe « điên », lao vào đám đông tại một trung tâm thể thao ở Châu Hải, khiến 35 người bỏ mạng đã gây náo động công luận tại Trung Quốc. Trên mạng xã hội, nhiều người đề cập đến hiện tượng « trả thù xã hội », khi người ta có hành động bạo lực, tấn công người lạ vì những bức xúc cá nhân. Từ Bắc Kinh, thông tín viên Cléa Broadhurst cho biết thêm thông tin : « Cuộc tấn công xe điên ở Châu Hải đã châm ngòi một cuộc tranh luận dữ dội trên mạng xã hội ở Trung Quốc khi nói về ‘cuộc trả thù xã hội’. Khái niệm này ám chỉ các hành động bạo lực của những người cảm thấy bị bỏ rơi, bị cho ra rìa xã hội, tấn công bừa vào những người lạ. Trên mạng xã hội Weibo, một bình luận đã được loan tải rộng rãi : « Làm sao có thể trả thù xã hội bằng cách giết nhiều người vô tội nhất có thể, bởi vì cuộc sống gia đình của người đó không tốt ? Trả lời cho câu hỏi này, nhiều người dùng mạng đã đề cập đến áp lực cuộc sống thường nhật, cũng như là tầm quan trọng để giải quyết những vấn đề về sức khỏe tinh thần. Họ kêu gọi đưa ra luật mới để ngăn chặn xảy ra tình trạng bạo lực như vậy. Một vấn đề gây bức xúc khác là cơ quan thực thi pháp luật được cho là làm việc kém hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề gia đình, như ly hôn. Chính điều này đã kích động hình thức trả thù bằng bạo lực, do quá khó để đạt được kết quả như mong muốn. Trong vụ tấn công Châu Hải, thủ phạm được cho là đã tấn công sau một cuộc ly hôn khó khăn. Thảm kịch này phản ứng một xu hướng : khi người ta không tìm thấy giải pháp cho các cuộc xung đột các nhân, hay xung đột xã hội, một số tìm đến bạo lực để bày tỏ sự thất vọng của mình. Tại Trung Quốc, một số thảm kịch bạo lực đã xảy ra năm nay, đặc biệt là nhiều vụ tấn công bằng dao, khiến hàng chục người chết. « Người mẫu gầy » trở lại giới thời trang Trong lĩnh vực văn hóa, trong một cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình BBC của Anh gần đây, giám đốc của tạp chí Vogue ở Anh, Chioma Nnadi, bày tỏ quan ngại về sự trở lại của xu hướng người gầy mảnh mai. Trong khi những năm trở lại đây, nhiều sự kiện thời trang được đánh dấu bởi các người mẫu với hình thể đa dạng, béo, gầy, cao thấp, nhằm thúc đẩy sự chấp thuận trong xã hội về sự đa dạng hình thể, không bị gò bó bởi các khuynh hướng thời trang. Từ Luân Đôn, thông tín viên Emeline Vin cho biết thêm thông tin : « Chủ biên tạp chí thời trang Vogue ở Anh, bày tỏ quan ngại về xu hướng ‘người mẫu gầy quay trở lại’. Sau khi dự nhiều tuần lễ thời trang trong thời gian vừa qua, bà Nnadi cho biết không thấy nhiều người mẫu với các hình thể đa dạng xuất hiện, đặc biệt là có nhiều người mẫu quá gầy đứng trên các sàn diễn. Tuy thời trang Anh vẫn gắn liền với hình ảnh gầy mảnh mai của Kate Moss, gầy gò như cành cây, thiết lập các tiêu chuẩn gầy cực đoan vào những năm 2000, nhưng nhiều năm qua, các thương hiệu đã nỗ lực giới thiệu những người mẫu với kích thước ngoại hình đa dạng. Làm sao có thể giải thích bước thụt lùi này trong thời trang ? Theo bà Chioma Nnadi, một trong những thủ phạm là loại thuốc giảm cân Ozempic, loại thuốc vốn được sử dụng để điều trị tiểu đường, có tác dụng ức chế sự thèm ăn. Thương hiệu thời trang Namilia cũng đã gây tranh cãi trong tuần lễ thời trang vào tháng 7 vừa qua, khi trình làng chiếc áo phông in dòng chữ « I love Ozempic » - Tôi yêu Ozempic. Vào năm 2009, tạp chí Vogue Anh đã yêu cầu các nhà mốt gửi mẫu quần áo với kích cỡ khác, thay vì số 32 (size châu Âu), để có thể tuyển dụng những người mẫu có thân hình khác nhau. Bà Chioma Nnadi cho rằng tạp chí thời trang của bà, hay báo chí không thể làm cách mạng đơn độc, thay đổi các chuẩn mực về cái đẹp. »…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
Nằm trên bờ Bắc của Đại Tây Dương ở Nam Mỹ, vùng hải ngoại của Pháp Guyane từng là nơi giam giữ hơn 500 tù nhân chính trị “An Nam” từ những năm 1930 đến Đệ Nhị Thế Chiến. Đến từ xứ Đông Dương cách 17 000km, những tù nhân được coi là những lao động, khai hoang những khu rừng rậm Amazon cho Pháp. Một câu chuyện ít người biết đến, bị lãng quên trong lịch sử của Việt Nam và Pháp. Tại Guyane, vùng hải ngoại của Pháp ở Nam Mỹ, con đường ven bờ rừng được nhiều người dân và du khách lui tới đi dạo trong những ngày nghỉ cuối tuần ở xã Montsinéry-Tonnégrande , cách thành phố Cayenne 45 km về phía đông. Ẩn sau các tán cây là các khối bê tông dài như tường thành bị phong rêu, phủ kín dây leo, khiến không ít người đặt nghi vấn về câu chuyện lịch sử ẩn đằng sau. Đó cũng là trường hợp của nhà sử học người Pháp Christèle Dedebant, kết hợp nhiều sự kiện ngẫu nhiên, tình cờ đi dạo trên con đường mòn đó, tình cờ nghe về câu chuyện nhà tù khổ sai An Nam – Le Bagne des anamites, và tình cờ gặp được người thân của những cựu tù nhân để tiến hành đào sâu tìm hiểu ngọn nguồn, vẽ lại bức tranh đầy đủ về hành trình vượt đại dương và số phận của 500 tù nhân Việt bị lưu đày ở Guyanne dưới thời Pháp thuộc. Trong cuốn sách “Le Bagne des annamites, les derniers déportés politiques en Guyane ” được nhà xuất bản Actes Sud cho ra mắt độc giả hồi tháng Năm, nhà sử học Christèle Dedebant lật lại những trang sử về bối cảnh các cuộc cách mạng ở Việt Nam những năm 1930, làm tiền đề cho tuyên bố độc lập của Hồ Chí Minh vào năm 1945. Tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Bái, dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng, nổ ra vào tháng Hai năm 1930 nhưng đã nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp. Khoảng 670 người đã bị bắt giữ, bỏ tù hay hành quyết, chủ yếu là những người tham gia vào phong trào kháng chiến của Việt Nam Quốc Dân Đảng, hay phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Trong số đó, 538 nam tù nhân, từ 17 đến 50 tuổi, được xét là “đủ khả năng vượt đại dương” , trên con tàu Martinière, đưa đến giam giữ ở Guyane. Đọc thêm : "Lính thợ Đông Dương" : Những người lính thầm lặng tại Pháp trong Thế Chiến II Khi đến xứ Nam Mỹ xa xôi, những người này không bị giam giữ tại các nhà tù của chính quyền thuộc địa vốn có mà ở những khu vực đặc biệt được xây dựng dành riêng cho họ, bị đưa đi lao động khổ sai, giúp chính quyền thực dân Pháp khai hoang vùng đất mới rộng lớn này. Khi tách họ khỏi các nhà tù truyền thống cũng là để tránh sự lây lan của tinh thần dân tộc chủ nghĩa trong các xà lim ở Guyane. Cuốn sách đưa người đọc tìm hiểu lại cuộc sống thường nhật của các tù nhân, phải tự mình xây dựng nơi sinh hoạt chung, tại nơi giam giữ mình, trong điều kiện vệ sinh nghèo nàn. Nhiều người mắc các bệnh về đường hô hấp hay đường ruột. 10 tù nhân đã bỏ mạng. Một số tìm cách đào tẩu, tránh cảnh lao động khắc nghiệt và tránh bị lây nhiễm. Đến Guyane, những tù nhân chính trị An Nam được coi là “những lao động” VIP, “có lợi ích khi giữ tinh thần và thể chất cho họ ” để khai phá những vùng lãnh thổ mà chúng ta chưa biết đến ở Guyane” , theo trích dẫn trong cuốn sách từ tư liệu của bộ Thuộc Địa. Nhà sử học cũng nhắc lại sự thay đổi chính quyền ở Guyane vào năm 1936, và dẫn đến việc trả tự do cho một số tù nhân, nhưng lại bị hạn chế di chuyển, không được phép rời khỏi lãnh thổ này. Một số được cấp đất rừng để khai hoang, canh tác, hay được phép làm việc tại doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Guyane. Đến khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, các nhà tù tại Guyane lần lượt bị đóng cửa. Những tù nhân Đông Dương cuối cùng được trả tự do từ năm 1949. Mãi đến năm 1963 họ mới được đưa trở về lại quê hương. Một nửa trong số những người bị lưu đày đã quyết định ở lại Cayenne, sinh sống “trong khu phố người Hoa”, trên thực tế là những người Đông Dương. *** Để hiểu thêm về câu chuyện của những tù nhân chính trị này, RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn bà Christèle Dedebant, tác giả của cuốn sách “Le bagne des Annamites : Les derniers déportés politiques en Guyane”- tạm dịch là “Nhà tù khổ sai An Nam : những tù nhân chính trị cuối cùng bị lưu đày ở Guyane” Điều gì đã thôi thúc bà thực hiện cuốn sách này ? Christèle Dedebant : Điều khiến tôi quan tâm nghiên cứu chủ đề này, đó là khoảng cách giữa Guyane và Đông Dương, đưa người đi đày đến một nơi hoàn toàn xa lạ, cách hơn 17 000 km. Tôi thấy đó là điều không tưởng. Hơn nữa, bối cảnh lịch sử, vào năm 1931, khi những tù nhân Việt bị đưa đến Guyane, đó cũng là thời điểm huy hoàng của đế quốc thực dân Pháp. Tất cả chỉ được phép rời đi mãi cho đến năm 1963. Trong 30 năm đó, thế giới đã thay đổi, và nhất là quan hệ giữa Việt Nam và Pháp. Do đó, tôi đã đặt câu hỏi về số phận của những tù nhân này, họ đã trải qua chuyện gì. Họ bị đưa khỏi Việt Nam đến Guyane dưới thân phận những tù nhân của xứ thuộc địa, không phải là công dân Pháp. Số phận của họ ra sao khi các nhà tù bị dỡ bỏ. Dĩ nhiên là các câu trả lời khá phức tạp bởi vì một số đã ở lại Guyane, một số trở về Việt Nam, một số khác thì đến Pháp sinh sống. Trong cuốn sách, bà nêu ra những hiện thực tàn bạo của chế độ thực dân, để lại những vết sẹo vẫn còn hiện hữu cho đến nay. Trong quá trình viết ra cuốn sách này, có điều gì mới được phát hiện ra khiến bà bị bàng hoàng trước hiện thực lịch sử hay không ? Christèle Dedebant : Có rất nhiều chuyện khiến tôi bị sốc. Đầu tiên là một ý tưởng dã man trong tư tưởng thuộc địa, là ý định đưa 528 tù nhân đến lưu đày cách xa nhà hàng ngàn km để khai hoang một vùng lãnh thổ còn rộng hơn cả Irland. Đối với tôi đó là một ý tưởng điên rồ, đày những tù nhân xa xứ đến khai khai hoang vùng Amazon và họ không có ai tiếp sức hỗ trợ. Nhiều người trong số họ đã bỏ mạng vì bệnh ho gà, hay khó thích ứng với khí hậu. Kế hoạch này rõ ràng là thất bại. Mặc dù những người được gọi là dân An Nam, lại là những tù nhân được đối đãi tử tế nhất so với những người đến từ Bắc Phi hay các tù nhân Pháp, vì được coi là những người tiên phong, khai hoang đất đai. Thêm vào đó, tất cả các nhà tù đều áp dụng luật kép, tức là khi các tù nhân đã mãn án tù, nhưng lại không thể trở về nước và phải ở lại Guyane để bổ sung dân số vốn ít ỏi ở Guyane, để tiếp tục khai hoang lãnh thổ này. Trong những chương cuối của cuốn sách, bà đề cập đến số phận của những cựu tù nhân chính trị, lựa chọn trở về nước, nhưng lại bị chính quê hương chối bỏ. Lập trường của Việt Nam lúc đó cũng không rõ ràng. Các bài viết của nhà báo Danh Đức trên báo Tuổi Trẻ và về nhà tù An Nam ở Guyane, thu thập lời chứng của nhiều cựu tù nhân chính trị, chỉ ra sự nghi ngờ với những cựu tù nhân này, và mối liên hệ thực sự với Việt Nam Quốc Dân Đảng. Các bài báo về nhà tù người Việt ở Guyane cuối cùng đã bị kiểm duyệt vào năm 2008. Bà có lý giải nào về điều này được không ? Christèle Dedebant : Lập trường của chính phủ Việt Nam không khác nhiều so với các nước khác khi phải đối diện với câu hỏi có nên tiếp nhận những người tị nạn đã bị lưu đày biệt xứ trong 3 thập kỷ hay không. Bởi không ai rõ họ đã trở thành người như thế nào trong suốt quãng thời gian đó. Ban đầu, khi bị bắt đem đi, họ là những người dân tộc chủ nghĩa, một số là quan chức cấp cao trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, ví dụ như ông Bằng mà tôi nêu trong cuốn sách. Tất cả đều theo Cộng Sản, họ đều tôn thờ Hồ Chí Minh. Có một chi tiết khiến nhà xuất bản của tôi chú ý là vào năm 1932, có thông tin là Hồ Chí Minh qua đời, tang lễ của lãnh đạo Cộng sản Việt đã được tổ chức trong chính nhà tù. Nhưng cuối cùng họ biết được thông tin đó không xác thực. Ở Guyane, gần như không có sự bất đồng nào giữa các phe phái, và họ không đủ đông đảo để làm điều đó. Một số được trả tự do trở về Việt Nam vào những năm 1950-1960, thế nhưng lại không nhận được sự tiếp đón như họ mong đợi, mà bị nghi ngờ. Đó là một chuyện đáng buồn vì họ bị cả hai phe vứt bỏ. Nhưng tôi cho rằng trong thời chiến, đó là điều thường xảy ra. Trong cuốn sách, tôi có đề cập đến trường hợp của ông Yến. Vào những năm 70, ông Yến đã được yêu cầu làm gián điệp nhưng không chấp nhận làm việc đó. Tuy nhiên, những cựu tù nhân như ông có thể bị coi là những kẻ chỉ điểm. Để viết lại câu chuyện lịch sử này một cách hoàn chỉnh nhất, bà đã dành nhiều năm tìm kiếm tư liệu từ cả kho lưu trữ của Pháp đến những bài báo bằng tiếng Việt. Lý do mà bà viết cuốn sách này là gì ? Đâu là thông điệp mà bà muốn gửi cho độc giả ? Christèle Dedebant : Trong quá trình tìm kiếm, tôi đã gặp được con cháu của những tù nhân này ở Guyane, mà thông thường họ không muốn nói về xuất thân của cha mẹ vì đó là một câu chuyện nhiều đau thương và phức tạp. Đôi khi chính cha mẹ họ cũng không muốn nhắc đến và muốn lật sang trang mới. Những tù nhân bị đày đến Guyane, đa số không phải là những kẻ tội phạm nguy hiểm mà chỉ là những tội danh nhỏ, và cũng có nhiều chính trị gia, trong đó có gia đình của ông Yến, tự hào là một người phản chiến chống lại chế độ thuộc địa. Đó là những người đến từ Đông Dương, ở Guyane, chẳng ai có thể phát âm tên họ một cách rõ ràng, thậm chí viết sai tên, người ta không biết họ tên gì. Con cháu họ thường không nói tiếng Việt nữa. Cuốn sách mà tôi viết là mong muốn trao lại một mảnh ký ức cho những người đó. Về phía Pháp, theo bà, cho đến nay, Paris nhìn nhận lịch sử thuộc địa ở Đông Dương như thế nào ? Christèle Dedebant : Nhìn chung, tại Pháp, ký ức về chiến tranh Algérie đã lấn át những phần lịch sử khác. Đối với Pháp, tôi cho rằng chiến tranh Đông Dương chỉ là một cuộc chiến xa xưa dù nhiều chuyện kinh hoàng đã xảy ra. Nhiều người lính được điều đến chiến đấu ở Đông Dương, sau đó đã bị thuyên chuyển đến Algérie. 2024 là năm kỷ niệm 70 năm trận Điện Biên Phủ và cuốn sách mà tôi viết, trên thực tế chỉ là một yếu tố bị lãng quên. Những tù nhân này đã bị lãng quên trong một cuộc chiến bị cho vào quên lãng. Nhiều người đã hỏi tôi rằng, tại sao tôi không có nguồn gốc Việt Nam, cũng không phải từ hải ngoại, tại sao tôi lại quan tâm đến câu chuyện của những tù nhân này. Theo tôi câu trả lời rất đơn, giản, đó là lịch sử thuộc địa, lịch sử của nước Pháp. *** Xin cảm ơn bà Christèle Dedebant, tiến sĩ lịch sử đương đại, nhà báo của tạp chí Geo, tác giả của cuốn “Le bagne des Annamites : Les derniers déportés politiques en Guyane” - tạm dịch là “Nhà tù khổ sai An Nam : những tù nhân chính trị cuối cùng bị lưu đày ở Guyane”, nhà xuất bản Actes Sud.…
Tháng 05/2024, cựu thủ tướng Anh Rishi Sunak đã gửi lời xin lỗi công khai đến người dân vì một bê bối truyền máu nhiễm bệnh, khiến hàng chục nghìn người nhiễm HIV và viêm gan C. Một bê bối từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước, mà chính ông Sunak cũng phải thừa nhận rằng đó là “ sự suy thoái đạo đức kéo dài hàng thập kỷ trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe ” của chính phủ Anh. Sự thật được phơi bày sau nhiều thập kỷ Bê bối bắt đầu từ những năm 1970-1980 tại Anh khi có hàng ngàn người cần truyền máu. Những người này được chia thành hai nhóm chính, một là những bệnh nhân thiếu máu trong quá trình phẫu thuật, trong các điều trị y tế, hay những phụ nữ vừa sinh con… Nhóm thứ hai là những người mắc bệnh máu khó đông, một căn bệnh di truyền do thiếu hụt Yếu tố VIII hoặc IX, những yếu tố cần thiết cho quá trình tạo cục máu đông. Theo hãng tin AP, vào đầu những năm 1970, các bác sĩ đã phát hiện ra một phương pháp điều trị mới, được gọi là Yếu tố đông máu 8 (Factor VIII) và được ca tụng là phương thuốc kỳ diệu. Đây là loại thuốc được tách ra từ huyết tương người, do vậy cần một số lượng lớn nguồn cung huyết tương để sản xuất. Nhu cầu sớm vượt quá nguồn cung trong nước, vì vậy các quan chức y tế Anh đã bắt đầu nhập khẩu huyết tương từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, điều đáng nói là lý lịch của những người hiến máu gây nhiều lo ngại vì vào thời điểm đó, Yếu tố VIII được lấy từ máu của hàng chục ngàn người hiến tại Hoa Kỳ. Những người này hiến máu để kiếm tiền. Họ thường là tù nhân, những người làm nghề mại dâm hoặc những người nghiện. Chính điều này làm tăng đáng kể nguy cơ huyết tương bị nhiễm bệnh, mà chỉ cần một người hiến máu bị nhiễm bệnh thì toàn bộ lô sản phẩm đều sẽ bị nhiễm bệnh theo. Theo ước tính từ cuộc điều tra kéo dài 6 năm mà chính phủ của thủ tướng Theresa May ra lệnh tiến hành năm 2017, hơn 30.000 người đã nhiễm virus viêm gan C hoặc HIV qua truyền máu hoặc do điều trị bằng Yếu tố VIII. Hơn 3000 người chết và hàng chục nghìn người phải sống chung với bệnh tật. Nhiều người còn lây sang gia đình và người thân của mình. Thẩm phán Brian Langstaff, người đứng đầu cuộc điều tra về bê bối “máu bẩn”, đã tố cáo rằng thảm hoạ này hoàn toàn “ không phải một tai nạn ” mà bắt nguồn từ sự tác trách, coi thường tính mạng của người dân. Giới chức Anh lúc đó đã bỏ qua các cảnh báo nguy hiểm, bỏ qua các phương pháp sàng lọc và xử lý nguồn máu vì lý do kinh tế, bỏ qua cả các quy tắc đạo đức. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Sau khi phát hiện ra những ca nhiễm HIV và viêm gan C do được truyền máu, chính phủ của cố thủ tướng Magaret Thatcher thời điểm đó, những người phải chịu trách nhiệm chính cho vụ việc này, thay vì dừng lại, nhận lỗi và sửa sai thì lại cố gắng che đậy, đưa thông tin sai sự thật đến người dân và tiêu huỷ các bằng chứng. Để rồi hơn 50 năm sau, người dân Anh mới được nhận lời xin lỗi công khai đầu tiên tới từ chính phủ Rishi Sunak. Đáng tiếc là hàng ngàn nạn nhân đã không còn sống để được nghe lời xin lỗi mà họ vẫn mong chờ. “Vô hại” “Vô hại” là những gì mà chính phủ nói với công chúng. Theo nhật báo Anh The Guardian, tháng 11/1983, cựu bộ trưởng y tế Ken Clarke đã mạnh mẽ khẳng định trước báo giới rằng “ không có bằng chứng thuyết phục ” nào cho thấy HIV có thể lây truyền qua đường máu và nguy cơ virus viêm gan C gây bệnh là “ rất thấp và không nghiêm trọng ”. Để công chúng thêm tin tưởng, các bộ trưởng cũng liên tục nhắc lại rằng người dân Anh “ đang nhận được sự điều trị tốt nhất hiện có ”. Báo cáo điều tra của thẩm phán Langstaff còn chỉ ra rằng các bác sĩ cũng đóng góp một phần không nhỏ công sức vào việc lừa dối người dân. Các bác sĩ không những không thông báo cho bệnh nhân những nguy cơ tiềm ẩn trước khi bệnh nhân tham gia điều trị mà thậm chí cả khi những người này đã nhiễm virus HIV hay viêm gan C, các bác sĩ cũng che giấu thông tin về nguyên nhân và tình trạng bệnh của họ, dẫn đến những chậm trễ trong việc tiếp cận điều trị chuyên khoa. “Vô trách nhiệm” “Vô trách nhiệm” là những gì công chúng nói về họ. Họ ở đây là chính phủ Anh thời điểm đó, và cụ thể hơn là Hệ thống Y tế Quốc gia Anh (National Health Service - NHS). Nhiệm vụ chủ đạo của cơ quan này là chăm sóc, nâng cao sức khoẻ cho người dân, ưu tiên và tôn trọng sinh mạng của bệnh nhân. Thế nhưng họ đã làm gì? ... Họ làm ngơ trước những hiểm hoạ mà họ biết rõ. Theo đài BBC và tờ The Guardian của Anh, ngay từ những năm 1930, người ta đã biết rõ rằng việc truyền máu có thể làm lây nhiễm nhiều loại bệnh chết người. Virus gây ra bệnh viêm gan C đã xuất hiện ít nhất từ giữa những năm 1970, còn việc lây truyền HIV qua đường máu thì đã được giới khoa học xác nhận vào năm 1982. Không chỉ vậy, họ còn biết rằng việc nhập khẩu máu và các chế phẩm máu thương mại sản xuất tại Mỹ mang nhiều rủi ro và ít an toàn hơn so với các phương pháp điều trị trong nước. Vào giữa những năm 1970, một giáo sư đã cảnh báo rằng các sản phẩm máu này được lấy “ 100% từ những người vô gia cư ở các khu vực tồi tàn ”, trong khi đó Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kêu gọi các quốc gia tự chủ về nguồn máu để bảo đảm an toàn. NHS cũng tiến hành tăng quy mô của các bể chứa để sản xuất Yếu tố VIII dù biết như vậy có thể làm tăng đáng kể nguy cơ lây truyền virus. Biết rõ là vậy nhưng giới chức y tế nước này đã không có những biện pháp cần thiết để bảo vệ người dân. Họ không những không đình chỉ việc nhập khẩu các sản phẩm máu thương mại từ Mỹ, mà cũng chẳng kiểm soát việc phân phối chúng. Việc triển khai xét nghiệm virus HIV và viêm gan C trong các sản phẩm máu được hiến cũng bị trì hoãn. Chính phủ cũng không đầu tư nghiên cứu các phương pháp làm bất hoạt virus, chẳng hạn như qua xử lý nhiệt. Họ làm ngơ trước tính mạng của người dân. Dù tôn chỉ hành động là “ tôn trọng mọi sinh mệnh, không phân biệt đối xử, luôn mang lòng trắc ẩn và sự tử tế ” nhưng NHS đã sử dụng các học sinh khuyết tật tại trường Treloar's College như những con chuột bạch để thử nghiệm Yếu tố VIII. Vẫn theo báo cáo điều tra năm 2017, từ năm 1974 đến 1987, 122 đứa trẻ mắc bệnh máu khó đông (haemophilia) đã được điều trị tại ngôi trường này bằng phương pháp mới, một thứ phương pháp “kỳ diệu” khiến ít nhất 72 trong số này tử vong. Họ đa phần đều chết vì nhiễm HIV và các loại virus viêm gan A, B, C. “Vô vọng” “Vô vọng” có lẽ là cảm giác mà những nạn nhân của bê bối này phải chịu đựng. Theo chân thông tín viên RFI Emeline Vin tại Anh, chúng ta sẽ cùng lắng nghe câu chuyện của chính những nạn nhân và người nhà của họ. Rất nhiều người đã chết, trong đó có Collin Smith : “Collin Smith là nạn nhân nhỏ tuổi nhất bị nhiễm bệnh. Cậu bé được chẩn đoán nhiễm Sida ngay trước sinh nhật năm hai tuổi. Mái tóc vàng và khuôn mặt tinh nghịch, cậu bé đã mất năm 1990, khi mới chỉ 7 tuổi. Bố mẹ của Collin cho biết : “Trước khi chết, thằng bé rất gầy, nó chỉ còn da bọc xương. Khi đó nó nặng 6 kg, chỉ nặng hơn đứa trẻ mới sinh một chút. Hai tháng cuối dường như kéo dài vô tận với chúng tôi. Chúng tôi rất tuyệt vọng. Chẳng đêm nào chúng tôi ngủ được. Ít nhất bây giờ chúng tôi đã đủ dũng cảm để nhắc về thằng bé. Collin có tính cách rất đặc biệt. Là một đứa trẻ vui vẻ, thằng bé lúc nào cũng tươi cười, nó thường hay trêu chọc mọi người .” Với những nạn nhân đã qua đời, nỗi đau để lại cho người thân, gia đình của họ. Vậy những người may mắn vẫn sống sót thì sao? Vào những năm 80, Bob Naylor đã được truyền máu trong một cuộc phẫu thuật và đã bị nhiễm virus viêm gan C từ đó. Bob cho biết : “Tôi thường xuyên cảm thấy không khoẻ. Cảm giác mệt mỏi, uể oải khủng khiếp. Mỗi lần tôi đi ngủ, chân tôi lại bắt đầu bị chuột rút và co thắt. Tôi đau bụng và đau lưng, những cơn đau này chẳng bao giờ biến mất. Một hôm cô y tá đã nói với tôi rằng : Bob, anh biết không, cả đời này anh sẽ phải gặp chúng tôi. Tôi hỏi vì sao thì cô ấy trả lời : Gan của anh đã bị tổn hại nên anh sẽ luôn phải đi viện kiểm tra. Anh sẽ phải lấy máu 6 tháng một lần, siêu âm 6 tháng một lần, làm xét nghiệm Fibroscan 2 đến 3 năm một lần. Anh đã bị suy gan cấp tính.” Không chỉ có những nỗi đau về thể xác, tinh thần của nạn nhân cũng bị khủng hoảng nghiêm trọng. “Vào thời điểm đó, những người nhiễm HIV đều bị kỳ thị. Tại một thành phố nhỏ ở xứ Wales, Robert đã phải chịu sự phân biệt đối xử vì bị Sida. Anh cho biết : “Tôi đã kể việc mình bị nhiễm HIV cho chị gái mình và ngay sáng hôm sau, tất cả mọi người đều biết. Trên tường nhà của chúng tôi bị sơn chữ “Gia đình SIDA”. Cửa nhà thì bị vẽ chữ X. Gia đình tôi nhận được hàng tá cuộc điện thoại yêu cầu gửi tôi ra một hòn đảo hoang. Chúng tôi đã phải bỏ trốn, như thể là tôi đã giết người vậy. Thậm chí trong gia đình tôi, có người còn nói với con cái họ rằng đừng động vào đĩa của Robert, đừng động vào cốc của Robert. Nếu chính gia đình mình còn chẳng thể cảm thông với mình thì sao tôi có thể trông đợi là những người lạ ngoài kia sẽ hiểu cho tôi.” “Vô tội” Nếu nạn nhân cảm thấy vô vọng thì những người chịu trách nhiệm chính trong vụ việc này cảm thấy gì? Có thể họ cảm thấy mình “ vô tội ”. Ta cần quay lại vụ bê bối tương tự, diễn ra tại Pháp vào cùng khoảng thời điểm trên. Theo Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA), khi đứng trước toà vào tháng 01/1992, cựu bộ trưởng phụ trách các vấn đề xã hội, bà Georgina Dufoix, vẫn không can tâm và phát biểu một câu “ đi vào lịch sử ” rằng : “ Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm nhưng không cảm thấy mình có tội .” Dù chưa khảng khái trả lời như cựu bộ trưởng Dufoix tại Pháp, nhiều người vẫn tự hỏi rằng phải chăng giới chức Anh lúc đó cũng đã không cảm thấy tội lỗi. Vì nếu thấy có tội, thấy cắn rứt lương tâm, họ đã đứng ra chịu trách nhiệm, họ sẽ không để người dân phải chờ tới vài thập kỷ mà vẫn chưa nhận được lời xin lỗi. Xin nhắc lại rằng lời xin lỗi hồi tháng 05/2024 đến từ cựu thủ tướng vừa miễn nhiệm Rishi Sunak, chứ hoàn toàn không đến từ những quan chức trong chính phủ Anh thời điểm đó, những người trực tiếp đứng sau thảm hoạ này. Có lẽ trong bê bối này, từ “vô tội” chỉ được dành cho những nạn nhân, những người đã chết, đã nhiễm bệnh vì tin tưởng vào các bác sĩ, vào hệ thống y tế quốc gia, vào chính phủ. “Vô tội” cũng là những học sinh khuyết tật của trường Treloar’s College thời điểm đó, những đứa trẻ được đem ra làm thí nghiệm. Điều đáng ngạc nhiên ở bê bối máu bẩn là nó không chỉ xảy ra ở Anh, mà còn ở rất nhiều nước khác trên thế giới, từ Pháp, Nhật Bản đến Trung Quốc. Dù quy mô của thảm hoạ khác nhau, nhưng điểm chung của tất cả các bê bối này là các quan chức thời điểm đó đã làm việc tắc trách và không tôn trọng tính mạng của người dân.…
T
Tạp chí xã hội
![Tạp chí xã hội podcast artwork](https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/32.jpg 32w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/64.jpg 64w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/128.jpg 128w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/256.jpg 256w, https://cdn.player.fm/images/1760898/series/jcJLUN61alFcBgGj/512.jpg 512w)
![Tạp chí xã hội podcast artwork](/static/images/64pixel.png)
1 Bất chấp khủng hoảng, lạm phát, dân Pháp vẫn hảo tâm đóng góp 12:54
12:54
Main Kemudian
Main Kemudian
Senarai
Suka
Disukai12:54![icon](https://imagehost.player.fm/icons/general/red-pin.svg)
Năm 2023, bất chấp lạm phát, khủng hoảng kinh tế, người dân Pháp vẫn duy trì lòng hảo tâm, đóng góp cho các tổ chức thiện nguyện, dù là tổ chức giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ trẻ em, giáo dục hay nghiên cứu y khoa, chăm sóc động vật … Dẫu có những người do hạn hẹp về tài chính đã phải cắt giảm các khoản quyên tặng, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều người giàu có tích cực đóng góp hơn. Để hiểu thêm về tình hình quyên góp cho các tổ chức thiện nguyện, vừa qua, RFI Tiếng Việt đã có cuộc trao đổi với bà Nadège Rodriguez, giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités. Đây là nghiệp đoàn chuyên nghiệp của các hiệp hội và tổ chức kêu gọi lòng hảo tâm của người dân Pháp, năm 2024 quy tụ khoảng 150 tổ chức, được xem là những tổ chức phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. RFI : Xin chào Nadège Rodriguez. Bà là giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités. Xin bà giải thích cho thính giả, độc giả của đài RFI Tiếng Việt biết liệu trong thời gian qua, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, lạm phát, liệu người dân Pháp có còn hào phóng và nhiệt tình quyên góp tiền cho các hiệp hội và quỹ thiện nguyện ? Nadège Rodriguez : Tôi xin giải thích là chúng tôi dựa vào các nghiên cứu thường niên có tên gọi Thước đo lòng hảo tâm của người Pháp năm 2023, năm có tỉ lệ lạm phát cao, lên đến 4,9%. Chúng tôi nhận thấy là số tiền người Pháp hảo tâm quyên tặng tăng 2,1% tính theo trị giá đồng euro hiện tại. Đối với chúng tôi, đây là một điều đáng nói trong bối cảnh khả năng chi tiêu của người Pháp đã bị giảm sút. Thông tin mới này không tệ như chúng tôi lo nghĩ ban đầu. Giải thích điều này thế nào ư? Tại sao người Pháp vẫn tiếp tục lòng hảo tâm trong khi tài chính hạn hẹp hơn ư ? Vâng, đúng là có nhiều người mong muốn quyên tặng tiền cho các tổ chức. Dựa vào một cuộc khảo sát khác liên quan đến những người Pháp có thể đã quyên tặng nhiều hơn trong năm nay, lý do chính của họ là trong họ có niềm tin là họ giúp đỡ được người khác và mong muốn được giúp đỡ mọi người, mong muốn giúp đỡ những hiệp hội đang gặp khó khăn. Với tình trạng bất bình đẳng gia tăng mạnh, có nhiều người cần được các tổ chức này hỗ trợ hơn, và trong bối cảnh lạm phát này, các tổ chức cũng phải gánh chịu tình trạng chi phí gia tăng, họ phải đương đầu với nhiều khó khăn. Và người dân Pháp đã nghe và thấu hiểu những lời kêu gọi giúp đỡ của các hiệp hội, tổ chức, họ mong muốn đóng góp, nên ai có khả năng thì họ quyên tặng nhiều hơn cho các tổ chức này. Nhờ vậy mà chúng tôi ghi nhận tỉ lệ quyên góp từ thiện tăng. RFI : Theo các nghiên cứu của France Générosités, ai là những người tích cực đóng góp từ thiện nhất tại Pháp ? Sự tăng hay giảm quyên góp tiền thì liên quan chủ yếu đến nhóm người nào tại Pháp ? Nadège Rodriguez : Có lẽ tôi xin trả lời câu hỏi thứ hai của chị trước. Quả thực, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta nên xem xét một chút về số tiền quyên tặng. Về năm 2023, chúng tôi quan sát thấy có sự sụt giảm số khoản quyên tặng dưới 150 euro, số khoản quyên tặng dưới 50 euro thậm chí còn giảm mạnh hơn. Chúng tôi thấy có một mối liên hệ chặt chẽ ở đây, nhất là chúng tôi đã dựa vào các cuộc khảo sát, và thấy là những người bị ảnh hưởng nhiều hơn về sức mua đã không thể quyên góp, họ tạm thời ngừng quyên góp. Hoặc có nhiều hiệp hội cần lòng hảo tâm nên họ phải quyết định đưa ra lựa chọn. Như vậy, những người có điều kiện tài chính khiêm tốn nhất cuối cùng đã ngừng đóng góp tiền hoặc quyên góp ít hơn nhiều. Nhưng phần chệnh lệch này cũng đã được bù đắp, bởi lòng hảo tâm của những người ít chịu ảnh hưởng hơn từ những cuộc khủng hoảng liên tiếp xảy ra và hào phóng hơn, nhờ đó số tiền quyên góp đã tăng lên. Và nếu quan sát các khoản tiền quyên góp nói chung thì chúng tôi thấy mỗi năm chúng ngày càng tập trung vào những nhóm người giàu có nhất. Con số mà hiện giờ chúng tôi có là 1% những nhà hảo tâm hào phóng nhất quyên tặng tới 22% tổng số tiền. Thật không may là có ngày càng nhiều người, do khả năng chi tiêu giảm sút, đã không thể quyên góp tiền. RFI : Theo bà thì đâu là những hiệp hội, quỹ, tổ chức nhận được nhiều tiền quyên tặng nhất? Và hoạt động thiện nguyện nào nhận được nhiều sự ủng hộ nhất? Nadège Rodriguez : Câu hỏi này khá khó trả lời bởi vì đáp án thay đổi tùy theo từng cuộc khảo sát, tùy theo câu hỏi được đặt ra. Chúng tôi hàng năm cứ vào tháng 03 thì cũng tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến cùng với Viện Ifop. Câu hỏi chúng tôi đặt ra : « Đâu là những hoạt động thiện nguyện mà quý vị cho rằng cần được ưu tiên nhất ? » . Và từ 10 năm nay, khi đặt câu hỏi này với người dân Pháp, chúng tôi thấy rằng hoạt động được ưu tiên nhiều nhất là giúp đỡ và cứu trợ trẻ em. Tiếp theo đó, theo khảo sát năm 2023, hoạt động được ưu tiên thứ hai là bảo vệ động vật. Hoạt động này từ nhiều năm nay đã vươn lên top đầu và hiện giờ thì nằm ở vị trí thứ 2. Nhưng cách nay 10 năm thì nó không thu hút được nhiều lòng hảo tâm như thế đâu. Xu hướng này khá là mới. Từ 3-4 năm nay, chúng tôi quan sát thấy mọi người quan tâm nhiều hơn đến việc giúp đỡ các tổ chức bảo vệ động vật. Đứng ở vị trí thứ 3 là tài trợ nghiên cứu y học. Đây là một lĩnh vực thu hút được rất nhiều tiền quyên tặng, chúng tôi đặc biệt ghi nhận những nhà tài trợ cao tuổi nhất. Tôi xin nói một chút như vậy về 3 lĩnh vực mà theo mọi khảo sát thì đều nằm trong số 2-3 lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của người dân Pháp. RFI : Vậy người Pháp hào phóng nhất vào những dịp nào ? Trong những năm qua, sự kiện nào thu hút được nhiều nhà hảo tâm nhất ? Nadège Rodriguez : Trong nghiên cứu thường niên, chúng tôi đều tìm hiểu về điều này, từ 20 năm nay rồi. Quý 3 tháng cuối năm tập trung 41% tổng số tiền quyên góp của người dân Pháp. Có nhiều điều xảy ra vào cuối năm và tháng 12 thực sự là tháng người Pháp tham gia quyên góp nhiều, thực sự là năm nào cũng vậy. Trái lại, quả thực là mỗi năm chúng tôi cũng tìm hiểu cả theo bối cảnh. Và thật không may, ngày càng có nhiều cuộc khủng hoảng cứ nối tiếp nhau, đòi hỏi có lòng hảo tâm của mọi người để đối phó với khủng hoảng, một cách nhanh chóng, khẩn trương và với sự huy động tích cực của các tổ chức để khẩn cấp giúp đỡ những người đột ngột bị tác động. Về những năm qua, chắc là tôi cũng không cần phải nhắc lại cuộc khủng hoảng Covid. Nhưng đúng là khủng hoảng Covid rất mạnh, mang tính toàn cầu. Tại Pháp, đã có 111 cuộc phát động các chiến dịch quyên góp lớn vào thời điểm đó. Đúng là năm 2020 cũng là năm mà số tiền quyên tặng lên đến đỉnh rất cao, cho dù khủng hoảng chỉ bắt đầu từ tháng 03/2020. Chúng tôi đạt mức quyên góp cao nhất vào thời điểm đó và tiền quyên tặng còn được bổ sung thêm trong suốt cả năm. Nhưng thật không may là cuộc khủng hoảng bùng nổ ở Ukraina vào tháng 03/2022. Chúng tôi cũng đã kêu gọi quyên góp để giúp đỡ người dân Ukraina và đỉnh điểm là số tiền chúng tôi nhận được đã chiếm tới 4-5% tổng số tiền quyên được hàng năm. Rồi thì trận động đất kinh hoàng năm 2023 ở Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 02, động đất ở Maroc vào tháng 09 cũng làm tăng bùng phát số tiền quyên tặng một cách đột xuất. Người dân Pháp đã muốn giúp đỡ, đã huy động tiền bạc để quyên góp giúp đỡ mọi người. Trong những đợt kêu gọi quyên góp khẩn cấp, thì đó là những thời điểm huy động sự hào phóng, lòng hảo tâm của người Pháp đã được truyền thông loan báo rộng rãi và người Pháp đã đáp lại. Điều này thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và cam kết của người Pháp trong việc cứu giúp những người cần sự trợ giúp nhất. RFI Tiếng Việt : Nadège Rodriguez, là giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités, vậy theo quan sát của bà, các hình thức quyên tặng liệu có những thay đổi theo thời gian ? Có những xu hướng mới nào ? Và đâu là những hình thức quyên góp được ghi nhận nhiều nhất ? Nadège Rodriguez : Không thể phủ nhận là sự xuất hiện mạnh mẽ của công nghệ số trong đời sống của tất cả mọi người cũng đã ảnh hưởng đến cách thức liên hệ và kêu gọi lòng hảo tâm. Đơn cử một con số, hồi năm 2019, hình thức quyên góp trực tuyến mới chỉ chiếm 20%. Nhưng chỉ 4 năm sau, đến năm 2023, con số này đã tăng lên thành 30%. Theo các phân tích xu hướng thì tăng 10% chỉ trong khoảng thời gian ngắn như vậy là rất nhiều đấy. Và vào thời phong tỏa (chống dịch Covid-19) thì xu hướng này lại càng tăng nhanh nếu so với việc sử dụng công nghệ số trong cuộc sống hàng ngày và để thanh toán. Về phía các tổ chức vì lợi ích chung, họ cũng biết cách đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cách giao tiếp, liên lạc và kêu gọi quyên tặng với mọi kỹ thuật có được nhờ công nghệ số. Đây thực sự là một cuộc cách mạng diễn ra mạnh mẽ, một sự tăng tốc chuyển đổi nhanh chóng các phương thức quyên góp. RFI Tiếng Việt : Chúng ta đều biết là ủng hộ các hoạt động thiện nguyện không chỉ là cho tặng tiền, mà ví dụ còn là góp thời gian, phương tiện vật chất hay sức lực, công sức. Vậy người Pháp có tích cực tham gia vào các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng như vậy hay không ? Nadège Rodriguez : Về câu hỏi này, thì quả thực cũng đã có 1 nghiên cứu về tình đoàn kết, tương thân tương ái, được tiến hành hàng năm liên quan đến hoạt động tình nguyện của người Pháp. Chúng tôi ước tính rằng hiện nay có 16 triệu tình nguyện viên trong các hiệp hội, còn tính tổng thể thì con số này là 20 triệu. Như vậy là rất nhiều. Nếu so với con số 5 triệu hộ gia đình quyên tặng tiền thì số tình nguyện viên như vậy là đông hơn số người quyên tặng tiền. Và xu hướng mà chúng tôi quan sát thấy là có sự tích cực cống hiến thời gian, đồng thời cũng có sự thay đổi. Thường thì đó là những người cao tuổi, có nhiều thời gian và cống hiến thời gian đều đặn, tuần nào họ cũng thường xuyên dành thời gian cho các hiệp hội. Thế rồi dịch Covid-19 đã khiến thói quen này thay đổi nhanh chóng. Không phải người lớn tuổi nào cũng đều trở lại sau thời gian phong tỏa chống dịch, và công việc của họ được những người trẻ tuổi tiếp quản. Và chúng tôi thực sự thấy rằng có một sự nhiệt tình, một sự tham gia mạnh mẽ và được thúc đẩy nhanh chóng trong giới trẻ để cống hiến thời gian cho các tổ chức vì lợi ích chung của cộng đồng. Nhưng họ làm theo cách khác những người đi trước. Sự đóng góp, cống hiến thời gian của họ mang tính bột phát nhiều hơn. Điều này đòi hỏi các tổ chức phải kêu gọi, huy động tình nguyện viên. Và hoạt động tình nguyện là điều cần thiết để triển khai sứ mệnh của các tổ chức này. Các tổ chức phải tiến hóa, thích ứng với những thay đổi trong cách tham gia hoạt động tình nguyện của người Pháp. RFI Tiếng Việt : Về phía các tổ chức, hiệp hội, theo bà thì đâu là những thách thức lớn nhất trong tương lai ? Đối với bà, điều gì là đáng lo ngại nhất ? Nadège Rodriguez : Tôi xin nói đến những hiệp hội và quỹ kêu gọi lòng hảo tâm, tức là hoạt động với mô hình kinh tế, theo đó tiền quyên góp là nguồn chính để họ tiếp tục thực hiện các sứ mệnh vì lợi ích chung. Thách thức lớn là phải dự báo, chuẩn bị trước và tìm nguồn thay thế cho những người vốn là những nhà hảo tâm từ lâu năm và nay đã cao tuổi. Hiện nay, độ tuổi trung bình của những người hảo tâm hay quyên góp là 62 tuổi, cao nhất là 75 tuổi. Đối với những người trong độ tuổi 35-55, chúng tôi biết rằng khó vận động họ đóng góp hơn. Đó là nhóm người ít quyên góp nhất. Như tôi đã nói ở trên, việc quyên góp tập trung nhiều ở nhóm người ít bị tác động nhất bởi các cuộc khủng hoảng xảy ra liên tiếp, tức là nhóm những người giàu có nhất. Chính vì thế, cần phải tìm kiếm vận động những người đến nay vẫn ít quan tâm đến việc quyên tặng và cũng cần nói chuyện thêm với những người trẻ tuổi để họ phát huy sự hào phóng. Đó thực sự là thách thức, bởi vì tôi cũng xin nhắc lại là chúng ta đang ở trong bối cảnh mà ngày càng có nhiều người cần được giúp đỡ, hỗ trợ, những người bắt đầu lâm vào cảnh ít nhiều bấp bênh và các tổ chức thiện nguyện mong muốn giúp đỡ. Ngày càng có nhiều người cần được giúp đỡ và không may là chúng tôi cũng có nhiều mối lo, tài trợ công thì cũng bị giảm. Vậy nên, nếu các tổ chức này muốn tiếp tục vận hành hàng ngày thì họ phải vượt qua được những thách thức đó. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn bà Nadège Rodriguez, giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités đã tham gia chương trình hôm nay !…
Selamat datang ke Player FM
Player FM mengimbas laman-laman web bagi podcast berkualiti tinggi untuk anda nikmati sekarang. Ia merupakan aplikasi podcast terbaik dan berfungsi untuk Android, iPhone, dan web. Daftar untuk melaraskan langganan merentasi peranti.